Thương vụ Gouzenko với tình báo Canada
Thương vụ Gouzenko là một sự kiện lịch sử có tác động sâu sắc đến an ninh và tình báo Canada cũng như nền chính trị thế giới. Nhân vật chính là Igor Gouzenko, một nhân viên mật mã của Liên Xô, thường chính thức hoạt động với chức danh “nhân viên dân sự” tại tòa đại sứ Liên Xô ở Ottawa, Canada.
Tuy nhiên đến ngày 5/9/1945, Gouzenko đã rời nơi làm việc và mang theo một loạt tài liệu quan trọng có nội dung nhấn mạnh đến sự tồn tại của một mạng lưới gián điệp Liên Xô ở Canada. Những tài liệu nhạy cảm này được đích thân Gouzenko chuyển giao cho Cảnh sát Hoàng gia Canada (RCMP). Khi hay tin về nhân vật đào ngũ Liên Xô, Thủ tướng Canada khi đó là William Lyon Mackenzie King liền phản ứng một cách hết sức thận trọng và điềm tĩnh, ông bèn tham khảo ý kiến với các đồng minh thân cận nhất gồm Tổng thống Mỹ Harry Truman, và Thủ tướng Vương quốc Anh Clement Atlee, nhằm dò xem phản ứng của phương Tây như thế nào.
Thương vụ Gouzenko được cho là đã tác động đến việc phát triển các khả năng tình báo Canada, đặc biệt là trong các lĩnh vực về phản gián và tình báo tín hiệu (SIGINT). Cũng ngay sau khi xảy ra vụ Gouzenko, Canada đã tức tốc triển khai chiến lược phản gián nhằm phát hiện và trục xuất các điệp viên Liên Xô đang hoạt động trong lãnh thổ Canada. Việc huy động tình báo Canada đã dẫn đến một chiến dịch phản gián quy mô cực lớn được đề xuất bởi Ủy ban Hoàng gia và RCMP đã triển khai rất hiệu quả.
Cũng nhờ những hé lộ của Gouzenko mà năng lực tình báo tín hiệu của Canada đã được cải thiện rất nhiều. Canada nhận ra sự cần thiết phải duy trì và cải thiện xa hơn nữa năng lực SIGINT và việc này đã dẫn đến sự thành lập hàng loạt các cơ sở và tổ chức về SIGINT. Đồng thời ngay trên bình diện quốc tế, Canada đã gia tăng ảnh hưởng trong cộng đồng SIGINT toàn cầu, nước này trở thành một thành viên bình đẳng của cái gọi là Hệ thống liên minh Canada-Anh-Mỹ hay SIGINT.
Thời kỳ tiền Chiến tranh lạnh
Khoảng năm 1939, ngay lúc bắt đầu Chiến tranh thế giới lần thứ 2 (ĐCTGII), tình báo Canada khi đó là một phần của mạng lưới tình báo tinh vi của Anh. Trước đó 1 năm (năm 1938), Canada đã thực hiện nỗ lực cá nhân đầu tiên trong lịch sử tình báo hiện đại nhằm thiết lập khả năng thu thập SIGINT toàn diện nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác lớn hơn nữa giữa quân đội, hải quân và không quân.
Tiểu thuyết gia kiêm phóng viên chiến trường Scott Anderson. Ảnh nguồn: Outside Magazine.
Tuy nhiên khi Đại chiến bùng nổ đã cản kế hoạch của Canada thành hiện thực; do đó về cơ bản, tình báo Canada vẫn là một phần lớn trong nỗ lực chiến tranh của Anh. Dù quy mô phát triển khiêm tốn, nhưng trong ĐCTGII, tình báo Canada cũng gặt hái được một số kết quả. Trước hết, vào năm 1941, Ottawa đã thành lập Đơn vị thẩm tra (EU) với mục đích chính là can thiệp vào các tin nhắn không dây của trục phát xít. Tuy nhiên, liên quan đến công nghệ tình báo, Canada vẫn phụ thuộc lớn vào quốc mẫu Anh do thiếu các hệ thống giải mã. Vì lý do này mà Canada “đã gửi các máy chặn tin nhắn đến Anh để giải mã và sẽ nhận lại những gì được cho là phù hợp với Canada”.
Thứ nữa, Canada đã tiến hành hoạt động tình báo hải ngoại đầu tiên trong suốt thời chiến. Các sĩ quan tình báo Canada đã được biệt phái tới Mỹ “nhằm mục đích bảo mật các thông điệp điện báo có giá trị tình báo cho cả Anh và Canada”. Những thông điệp này bao gồm các công hàm và thông điệp kinh tế mà chỉ ở nước Mỹ mới có thể tiếp cận được. Cuối cùng, Canada đã tăng cường vai trò là đối tác đáng tin cậy nhất của Anh và Mỹ.
Những đóng góp của Canada cho nỗ lực SIGINT của phe Đồng minh thật sự đã phát huy ý nghĩa, vì các trạm đánh chặn được thiết lập trên khắp đất nước Canada đã hỗ trợ đáng kể cho nỗ lực chiến tranh của quân Đồng minh trong Hải chiến Đại Tây Dương. Nhìn chung, Canada đã sở hữu năng lực tình báo khá tốt trước khi Igor Gouzenko tiết lộ, đặc biệt là khía cạnh công nghệ. Tuy vậy tình báo nước này vẫn lệ thuộc lớn vào các đồng minh Anh-Mỹ vốn hùng mạnh hơn.
Thương vụ Gouzenko cải tổ tình báo Canada
Những tiết lộ của Gouzenko về mạng lưới gián điệp Liên Xô đã khuyến khích các nhà lập kế hoạch Canada thiết lập khả năng tình báo toàn diện và mạnh mẽ hơn nữa. Tiểu thuyết gia kiêm phóng viên chiến trường Scott Anderson đã tuyên bố “Việc phát hiện ra các hoạt động gián điệp của Liên Xô ở Canada đã dẫn tới công tác tái đánh giá triệt để những ưu tiên tình báo”.
Igor Sergeyevich Gouzenko, nhân viên mật mã cho Đại sứ quán Liên Xô ở Ottawa (Canada) Ảnh nguồn: Ottawa Matters
Video đang HOT
Sau sự vụ Gouzenko, Thủ tướng Mackenzie King tuyên bố rằng để bảo vệ an ninh quốc gia, Canada quyết định thực hiện hai hành động cùng lúc: củng cố an ninh quốc gia và ngăn ngừa hoạt động gián điệp của nước ngoài. Những hoạt động phát triển tình báo thời hậu chiến của Canada đã có từ thương vụ Gouzenko, nó thúc đẩy giới chức Canada sử dụng phản gián để điều tra, bắt giữ và bỏ tù các điệp viên ngoại bang khác. Người Canada đã thành lập Ủy ban Hoàng gia (RC, với mục đích chính là điều tra các trường hợp gián điệp ở nước này) được “bật đèn xanh” nhờ đạo Luật ước lượng chiến tranh (WMA), Luật các bí mật chính thức (OSA) và Luật yêu cầu (IA).
Bằng cách sử dụng quyền hạn của những đạo luật này, RC được quyền giữ bí mật hoàn toàn về quá trình điều tra, trong khi cùng lúc vẫn có thể “chặt đứt tiếp xúc giữa bị tình nghi và gia đình của họ, các luật sư và cả công luận”. RC đã chỉ định cho Nhánh đặc biệt của RCMP, cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành hoạt động phản gián, trước đó nhánh đặc biệt đã từng khá thành công khi vạch mặt những thành phần phá hoại và điệp viên Đức Quốc xã (ĐQX) trong suốt thời kỳ ĐCTGII.
RCMP đã liệt kê một danh sách dài các cá nhân bị quy chụp là mối đe dọa tiềm tàng đối với an ninh quốc gia Canada; cũng như sàng lọc nhiều người, những thành phần đã tiếp cận thông tin quan trọng đối với an ninh quốc gia Canada; ngoài ra RCMP cũng nỗ lực giám sát các đại diện ngoại thương và ngoại giao công du đến Canada.
Nỗ lực phản gián của Canada trong giai đoạn sơ khởi của chiến tranh Lạnh chủ yếu nhắm vào việc tiêu trừ các hoạt động gián điệp ở Canada. Vì lẽ này mà RC đã tiến hành hoạt động ngăn chặn chống lại các điệp viên chìm vốn được chiêu mộ và biệt phái đến Canada từ các quốc gia khác. Kết quả: 20 người đã bị điều tra và truy tố, trong khi 42 nhà ngoại giao khác bị buộc phải rời Canada theo kiểu “Nhân vật không được hoan nghênh”. Theo RC, tất cả những người bị điều tra đều bị khép vào tội làm gián điệp, tuy nhiên Tòa án tối cao của nước này lại quyết định rằng chỉ có đúng 11 người thật sự có tội. Ngoài hoạt động phản gián, thương vụ Gouzenko đã nhấn mạnh vai trò của SIGINT mà Canada đã có những nâng cấp đáng kể vào thời Chiến tranh Lạnh.
Thành lập tình báo tín hiệu (SIGINT)
Phóng viên chiến trường Scott Henderson lưu ý rằng “Sau thương vụ Gouzenko, chính quyền Ottawa đã nhận thức rằng vai trò của Canada trên thế giới đã thay đổi cách mà nước này nghĩ về tái tổ chức cộng đồng tình báo”. Các nhà lập sách Canada nhận thức rằng việc duy trì SIGINT không chỉ giúp mở rộng năng lực tình báo của Canada mà còn giúp nước này tiến hành một chính sách tình báo tự chủ hơn. Vào cuối ĐCTGII, các nhà lập chính sách Canada đã tranh luận về vai trò của SIGINT.
Toàn cảnh Cơ quan an ninh truyền thông Canada (CSE), được hợp pháp hóa vào năm 2001. Ảnh nguồn: Ottawa Magazine
Các quan chức của Bộ Quốc phòng quốc gia (DoND) đã ủng hộ cho các dịch vụ tình báo toàn diện thời hậu chiến, trong khi các nhà ngoại giao và đại diện của Bộ Ngoại giao Canada thì chống lại ý tưởng về việc sáng lập một đơn vị tình báo mới. Cuối cùng, DoND đã thắng thế khi Thương vụ Gouzenko năm 1945 đột nhiên thúc giục một hướng tiếp cận mở rộng về chiến lược SIGINT”.
Nguồn gốc ra đời SIGINT như sau. Vào tháng 12 năm 1945 (tức chỉ 2 tháng sau khi xảy ra thương vụ Gouzenko), Canada đã quyết định rằng việc thiết lập cơ sở tình báo tín hiệu (SIGINT) là cần thiết. Kết quả là Chi nhánh truyền thông, Hội đồng nghiên cứu quốc gia (CBNRC) đã đi vào hoạt động vào tháng 9 năm 1946. Ngoài CBNRC còn có sự hiện diện của Cục Tình báo liên hợp Canada (CJIB) cơ quan chịu trách nhiệm “thu thập, nghiên cứu và phát tán các loại tình báo khác nhau” bắt đầu hoạt động vào năm 1947.
Vì thương vụ Gouzenko nhấn mạnh tầm quan trọng của SIGINT như một công cụ phản gián nên Canada đã quyết định mở rộng nhân lực cho CBNRC lên hơn gấp 2 lần chỉ trong vòng 5 năm; đến năm 1951, có hơn 450 nhân viên làm việc ở CBNRC. Tuy nhiên, hầu hết các nhân viên là nam giới, không có trình độ đại học hay cao đẳng, và chắc chắn đã làm giảm hiệu quả của CBNRC trong 5 năm đầu hoạt động. Canada cần công nghệ của Anh và Mỹ để cải thiện kỹ năng của nhân viên tình báo trong tương lai.
Khi phân tích mật mã trở thành yếu tố quan trọng trong SIGINT Canada vào những năm đầu tiên của thời kỳ chiến tranh Lạnh, “CBNRC đã cung cấp các kỹ năng toán học và mật mã học nhằm giải mật các thông tin liên lạc”. Từ năm 1975, các chức năng của CBNRC đã được chuyển giao cho DoND.
Sau đó, Cơ quan an ninh truyền thông (CSE) được sáng lập và được quản lý bởi DoND, nhưng việc ra các chính sách vẫn chịu sự phê chuẩn của cơ quan chính phủ trung ương là Hội đồng an ninh cơ mật (PSC). CSE là cơ quan mật trong suốt lịch sử hoạt động và nó chỉ được hợp pháp hóa vào năm 2001. Năm 1948, Canada và Mỹ cùng ký kết Hiệp định tình báo truyền thông Canada-Mỹ (CANUSA), trong đó “tạo ra các tham số cho hợp tác trao đổi tình báo truyền thông song phương, cũng như tạo thêm động lực để Canada tham gia vào quan hệ đối tác SIGINT”.
Khoảng 10 năm đầu sau Thương vụ Gouzenko, Canada đã tập trung nỗ lực SIGINT nhằm đánh chặn liên lạc của các lực lượng phòng không và không quân của đối phương. Vị trí địa lý của Canada cũng là một lợi thế: lãnh thổ nước này nằm kẹp giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, cho phép Canada thiết lập một số trạm đánh chặn Tìm kiếm trực tiếp tần số cao (HF-DF) nằm dọc theo 2 đại dương này. Trước năm 1970, đánh chặn thông tin đường dài là một yếu tố chính của năng lực SIGINT Canada, cái thời kỳ mà SIGINT Canada đạt được những năng lực đóng góp tốt nhất cho liên minh phương Tây.
Thêm nữa, đóng góp của Canada với Tổ chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) cũng đáng xem xét. Nước này là một bên ký kết Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NAT) vào năm 1949, và là một thành viên trung thành. Lý do chính để tình báo Canada gia nhập vào Liên minh phương Bắc là vì “NATO luôn duy trì mức độ cao của chia sẻ tin tình báo giữa các quốc gia thành viên kể từ khi được thành lập”. Bằng cách thông qua NATO, Canada đã cải thiện SIGINT và xếp thứ hạng cao trong cộng đồng tình báo quốc tế.
Canada lo ngại tình hình đại dịch COVID-19 trầm trọng hơn
Hiện, Canada đã áp đặt các biện pháp hạn chế mới đối với ba "điểm nóng" là Toronto, Ottawa và khu vực Peel trong ít nhất 28 ngày, theo đó người dân chỉ ra khỏi nhà khi thật cần thiết.
Trong khi Canada nghiêm cấm tất cả các hoạt động tụ tập đông người trong không gian hẹp như nhà hàng, quán bar, phòng tập thể thao, sòng bạc và rạp chiếu phim thì Libya và Paraguay lại nới lỏng một số biện pháp hạn chế.
Canada siết chặt các biện pháp hạn chế tại các "điểm nóng"
Theo phóng viên TTXVN tại Canada, Ontario - tỉnh đông dân nhất nước này - vừa thông báo sẽ áp đặt các biện pháp hạn chế mới đối với ba "điểm nóng" là Toronto, Ottawa và khu vực Peel.
Trong số các biện pháp hạn chế mới, có việc đóng cửa các quán ăn phục vụ trong nhà, các quán bar, phòng tập thể thao, sòng bạc và rạp chiếu phim.
Chính quyền Ontario cũng đề nghị người dân chỉ ra khỏi nhà khi thật sự cần thiết. Các biện pháp mới sẽ có hiệu lực từ 12 giờ 1 phút ngày 10/10 và kéo dài ít nhất 28 ngày.
Các trường học và các địa điểm tôn giáo vẫn mở cửa. Việc tụ tập ở không gian ngoài trời được giới hạn ở mức 25 người.
Tỉnh Ontario đã ghi nhận 939 ca nhiễm mới trong ngày 9/10 - mức cao nhất kể từ khi đại dịch bùng phát. Đáng chú ý là số ca nhiễm mới đã tăng trong 7 tuần liên tiếp, đặc biệt tăng mạnh ở Ottawa.
Còn tại tỉnh Quebec, Thủ hiến Francois Legault đã quyết định nâng cảnh báo dịch bệnh tại hầu hết các thành phố nhằm dọc sông St. Lawrence lên mức cao nhất.
Từ giữa tuần sau, việc đeo khẩu trang sẽ trở thành quy định bắt buộc tại các trường trung học thuộc các khu vực bị ảnh hưởng.
Thủ hiến Francois Legault đã kêu gọi người dân Quebec tránh tiếp xúc trong dịp lễ Tạ ơn cuối tuần này, khi trong 8 ngày qua thì có 7 ngày Quecbec ghi nhận số ca nhiễm mới vượt quá 1.000 ca.
Số liệu cập nhật trên trang web của Chính phủ Canada cho thấy số ca mắc COVID-19 ở nước này đã lên tới 178.117 ca, trong đó 9.585 ca tử vong.
Theo các mô hình dịch bệnh của Bộ Y tế Canada, đại dịch COVID-19 sẽ trở nên trầm trọng hơn nếu người dân không hạn chế tiếp xúc. Theo các mô hình này, đến ngày 17/10, số ca mắc COVID-19 tại Canada sẽ dao động trong khoảng 188.150-197.830 ca, với khoảng 9.690-9.800 trường hợp đã tử vong.
Tuy nhiên, nếu người dân giảm tần suất tiếp xúc từ 25-35%, đại dịch tại hầu hết các địa phương của Canada sẽ được kiểm soát.
Libya mở cửa trở lại các cơ sở tôn giáo ở thủ đô
Trong khi đó, Chính phủ Đoàn kết dân tộc Libya (GNA), được Liên hợp quốc ủng hộ, đã cho mở cửa trở lại các thánh đường Hồi giáo ở thủ đô Tripoli và các thị trấn lân cận sau gần 7 tháng đóng cửa.
Tuy nhiên, các tín đồ phải đeo khẩu trang và tuân thủ quy định giãn cách xã hội khi đến các địa điểm tín ngưỡng này. Những cơ sở thờ tự không đảm bảo việc tuân thủ các biện pháp hạn chế phải đóng cửa trở lại.
[Cập nhật tình hình diễn biến dịch COVID-19 tại một số quốc gia]
Kể từ khi ghi nhận ca mắc COVID-19 đầu tiên hồi giữa tháng Ba, Libya đã đóng cửa các thánh đường Hồi giáo trên cả nước và kêu gọi người dân cầu nguyện tại nhà.
Theo số liệu mới nhất, Libya đến nay ghi nhận hơn 41.000 ca mắc COVID-19 và 621 ca tử vong.
Paraguay nới lỏng các quy định phòng dịch COVID-19 với các nước láng giềng
Ngày 15/10 tới, Brazil và Paraguay sẽ mở cửa trở lại biên giới chung sau nhiều tháng tạm đóng cửa do dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19.
Theo phóng viên TTXVN tại khu vực Nam Mỹ, trong thông báo ngày 9/10, Cố vấn Cấp cao phụ trách quan hệ đối ngoại tại Phủ Tổng thống Paraguay Federico González cho biết chính phủ nước này sẽ mở cửa trở lại cầu Hữu nghị bắc qua sông Paraná nối thành phố Ciudad del Este với thành phố Foz do Iguacu của Brazil.
Bộ Y tế Paraguay sẽ đánh giá và đưa ra các quyết định liên quan đến dịch tễ học trong thời gian tới.
Ngoài ra, Chính phủ Paraguay cũng đã vạch ra một kế hoạch mở cửa biên giới với Argentina. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có phản hồi nào từ phía chính phủ quốc gia láng giềng.
Cố vấn González cũng thông báo Paraguay sẽ mở cửa trở lại Sân bay Quốc tế Silvio Pettirossi tại thủ đô Asunción cũng như Sân bay Guaraní vào ngày 21/10 tới.
Việc nối lại các chuyến bay sẽ được thực hiện theo các quy trình nghiêm ngặt về sức khỏe để tránh sự lây lan của bệnh COVID-19.
Người đứng đầu Tổng cục Hàng không dân dụng quốc gia Paraguay Félix Kanazawa đảm bảo rằng các sân bay Silvio Pettirossi và Guaraní đã sẵn sàng đón các chuyến bay quốc tế, đồng thời khẳng định các máy bay đến và đi từ hai sân bay này sẽ được khử trùng bằng một hệ thống tương tự như hệ thống được sử dụng trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt tại bệnh viện.
Ngoài ra, hành khách sẽ được yêu cầu cách ly 14 ngày tại nhà sau khi rời sân bay.
Paraguay đã ra lệnh đóng cửa biên giới của mình vào cuối tháng 3/2020 sau khi ghi nhận những trường hợp đầu tiên mắc COVID-19.
Tính đến nay, quốc gia Nam Mỹ này này đã ghi nhận 47.316 trường hợp nhiễm CVID-19, trong đó có 1.012 ca tử vong./.
Canada kêu gọi NATO theo dõi Trung Quốc trong 'thông điệp mạnh mẽ' gửi đến ông Tập Cận Bình Canada đã trở thành quốc gia mới nhất quan tâm đến tình hình căng thẳng ở Biển Đông khi Ottawa thúc giục NATO theo dõi các động thái của Bắc Kinh trong một "thông điệp mạnh mẽ về phòng thủ và răn đe" chống lại "ngoại giao con tin". Thủ tướng Canada Justin Trudeau. Biển Đông là khu vực có nhiều tranh chấp...