Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh kể chuyện quân đội chống ‘giặc’ COVID-19
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh chia sẻ những câu chuyện quân đội đi đầu chống ‘giặc’ COVID-19.
Chia sẻ với VTC News, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cho biết, những thành công bước đầu trong cuộc chiến chống dịch COVID-19 đã giúp người dân càng thêm tin tưởng vào Đảng, Chính phủ Việt Nam, là nền tảng giúp đất nước đối phó hiệu quả với những thách thức trong tương lai.
- Nhìn lại những thành công ở giai đoạn ban đầu trong cuộc chiến chống đại dịch COVID 19, Thượng tướng có những nhận xét gì?
Nói đến thành công bước đầu trước trong công tác phòng chống dịch COVID-19, phải nói đến sự lãnh đạo của toàn Đảng, sự điều hành của Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và của nhân dân, trong đó quân đội có đóng một phần công sức.
Tôi nghĩ rằng, về khía cạnh quốc phòng, có thể rút ra 3 bài học kinh nghiệm, cũng như 3 nguyên nhân dẫn đến thành công.
Trước hết, chúng ta có dự báo chính xác, dự báo sớm về sự phát triển của dịch COVID-19. Việc dự báo cái chưa từng diễn ra là không hề dễ dàng, đòi hỏi phải có, thông tin chính xác và những cái đầu sáng suốt, để đưa ra dự báo đúng.
Như chúng ta đã biết, ngay đầu năm 2020, khi thế giới mới bắt đầu chớm dịch, lúc bấy giờ chính phủ đã tổ chức các cuộc họp và xác định đây là nguy cơ đối với đất nước nếu chúng ta không sẵn sàng.
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam dự và chỉ đạo cuộc diễn tập phòng chống dịch COVID-19. Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì cuộc diễn tập.
Ngay trước Tết, Ban chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 của Chính phủ đã được thành lập và đi vào hoạt động, khi mà các nước còn chưa nhận thức hết về mối nguy hại của dịch bệnh này.
Đối với quân đội, ngay sau khi có Ban chỉ đạo phòng chống dịch COVID-19 của Chính phủ, Bộ Quốc phòng cũng thành lập ban chỉ đạo phòng chống dịch và sau đó tổ chức 2 đợt diễn tập lớn.
Trong đó có 1 cuộc diễn tập tham mưu và đặc biệt là diễn tập thực binh toàn quân. Có khoảng 15.000 cán bộ, chiến sỹ tham gia cuộc diễn tập này trên toàn quốc. Tình huống giả định là số ca nhiễm COVID-19 lên đến hàng chục nghìn người, còn số người được cách ly và điều trị là từ 30.000 – 50.000 người. Con số cách ly hiện nay phù hợp với tình huống giả định ấy.
Sau cuộc diễn tập, chúng ta đã rút ra nhiều kinh nghiệm thực tế và quân đội nhanh chóng bước vào công tác chuẩn bị, tập huấn cho cán bộ, chiến sỹ, chuẩn bị trang thiết bị, chuẩn bị bám nắm tình hình và tác chiến chỉ huy cho phù hợp với cuộc chiến đấu trong thời bình, mà trong quốc phòng gọi là mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Nhìn lại các nước trên thế giới, kể cả các nước lớn như Mỹ hay các nước có khoa học kĩ thuật tiên tiến ở châu Âu và các nước phát triển khác, hầu hết họ đều bị bất ngờ, lúng túng. Từ đó dẫn đến số lượng ca nhiễm là rất lớn.
Trong khi đó, Việt Nam chúng ta không bị bất ngờ chiến lược và không để bị động trước đại dịch COVID-19. Chúng ta đã đạt được tiên cơ trong cuộc chiến chống COVID-19.
Thứ hai, là khả năng chuyển trạng rất nhanh của đất nước nói chung, cũng như của quân đội nói riêng. Về vấn đề chuyển trạng thái của đất nước, trong dân sự, chúng ta thường nói là chuyển trạng thái bình thường sang trạng thái đột xuất hoặc trạng thái cảnh báo ở mức cao.
Còn trong quốc phòng, đó là việc chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến. Đây thực sự là một cuộc chiến chống kẻ thù, như Thủ tướng đã nói “ chống dịch như chống giặc“.
Nhờ sự chuyển trạng thái này mà chúng ta rất chủ động. Nếu hình dung khi bước vào chiến dịch quân sự, chuyển trạng thái tốt, chúng ta sẽ có sự chủ động, chúng ta sẽ chiếm được tiên cơ và xử lý vấn đề ngay khi sự việc diễn ra.
Ở đây, có khó khăn trong việc ngăn sông cấm chợ, hạn chế giao thương trong nước và quốc tế hay huy động lực lượng. Song chúng ta đã chuyển trạng thái đất nước rất nhanh, có thể thấy rõ sự hiểu biết và tính kỷ luật của người dân Việt Nam.
Tôi cho rằng đây là điểm rất đặc biệt và rất Việt Nam. Người dân rất chủ động, chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị, quy định của Chính phủ.
Nguyên nhân thứ ba là, chúng ta áp dụng thế trận toàn dân phòng chống dịch. Trong quốc phòng, thường gọi là “thế trận quốc phòng toàn dân”. Còn ở đây là thế trận toàn dân chống dịch.
Binh chủng hoá học phun thuốc khử khuẩn tại phố Trúc Bạch (Hà Nội) trong những ngày đầu có bệnh nhân mắc COVID-19 xuất hiện ở Việt Nam.
- Có thể hình dung thế trận này thế nào, thưa ông?
Chúng ta hay gọi là 4 tại chỗ. Bản chất là tỉnh lo tỉnh, huyện lo huyện, xã lo xã và trung ương lo việc trung ương. Chúng ta không xáo trộn đội hình và chủ động lo từng bước từ thấp đến cao.
Chúng ta không dồn bệnh nhân ở thành thị lên trung tâm duy nhất.
Nếu trong chiến tranh, chúng ta thực hiện chiến thuật “tỉnh giữ tỉnh, huyện giữ huyện, xã giữ xã”, thì trong đại dịch lần này chúng ta cũng làm tương tự, để ngăn chặn không lây lan bệnh ra toàn quốc.
Nhìn lại 3 bài học này, chúng ta thấy yếu tố “rất Việt Nam”. Chúng ta có những kinh nghiệm trong thời bình, trong quá trình phát triển, nhưng không thể không nhắc đến những kinh nghiệm huy động sức mạnh toàn nhân dân, toàn quốc trong các cuộc chiến tranh giải phóng đất nước. Việc này khó có thể thực hiện được nếu không có một hệ thống chính trị như Việt Nam.
Các quốc gia trên thế giới cũng có cách làm rất tốt, nhưng cách làm của Việt Nam là rất hiệu quả và phù hợp với tình hình trong nước.
Chúng ta có khả năng huy động sức mạnh của quốc gia vào các nhiệm vụ cấp bách trước mắt một cách nhanh nhất, với một khả năng tốt nhất và đảm bảo không làm phương hại tới nền tảng xã hội. Đây là những bài học quý báu trong thời gian tới.
Tôi muốn nhắc lại rằng, trong thời gian gần đây, dịch COVID-19 đã lùi dần, chúng ta đã có những thành công nhất định. Nhưng đây là kết quả bước đầu, chưa thể ngồi yên và không thể nói rằng dịch bệnh không quay lại.
Không chỉ với dịch COVID-19, trong tương lai, với bối cảnh biến đổi môi trường và khí hậu thế này, khả năng sẽ xuất hiện thêm các dịch bệnh khác nữa. Ở đây, dịch bệnh có yếu tố thiên nhiên song có cả bàn tay phá huỷ môi trường của con người. Đây là vấn đề mà chúng ta phải nhận thức được.
Video đang HOT
- Tại sao chúng ta có khả năng thích nghi với những diễn biến phức tạp của đại dịch một cách nhanh chóng, chính xác và toàn diện như vậy? Phải chăng yếu tố này thể hiện tính ưu việt trong công tác quản trị quốc gia, thể hiện tính ưu việt của chế độ chính trị cũng như sức mạnh, tiềm lực thực chất của Quân đội Việt Nam?
Trong 3 tháng vừa qua, xét về mặt chiến lược vĩ mô, theo tôi chúng ta thu được 3 kết quả lớn. Đầu tiên là việc chúng ta nhận thức được về dịch bệnh mang tính chất quốc gia và toàn cầu.
Với Quốc phòng, chúng ta nhận thức về nguy cơ, đe dọa hay các thách thức an ninh phi truyền thống. Chúng ta đã chứng kiến và là nạn nhân của dịch bệnh này. Và chúng ta hiểu một cách sâu sắc rằng, nếu không chuẩn bị tốt, không dự báo tốt, không có cách làm tốt thì chúng ta sẽ rơi vào thảm họa, giống như thế giới hiện đang gánh chịu.
Bộ đội chuẩn bị đón người dân vào khu cách ly. (Ảnh: Việt Linh)
Thứ hai, chúng ta bước đầu có cách thức, kinh nghiệm trong điều hành vĩ mô, cũng như xử lý, điều hành phòng chống dịch bệnh, cách ly và các biện pháp xã hội, y tế, sản xuất vật tư y tế ra sao.
Ở đây tôi không nói về mặt kỹ thuật, mà muốn nói đến thời gian và phương pháp. Tức là làm sao kết hợp giữa nhà nước và các doanh nghiệp, kết hợp trong quan hệ quốc tế.Chúng ta đã có những bài học cụ thể.
Tuy nhiên, những bài học này chỉ mới là bước đầu.
Thành công thứ ba đó là lòng tin. Trước hết đó là lòng tin của nhân dân đối với hệ thống chính trị. Đặc thù Việt Nam là do Đảng lãnh đạo, chính phủ điều hành và quân đội là nòng cốt trước những thách thức to lớn.
Tôi thấy người dân rất tin vào Đảng và Chính phủ. Tin vào thành công và tin vào những giải pháp để chấp hành cho tốt. Đó là thành công mang tính chất lâu dài. Đó là nền tảng giúp chúng ta đối phó hiệu quả với những thách thức trong tương lai.
- Và những công việc tiếp theo sẽ là gì, thưa ông?
Vấn đề tiếp theo là chúng ta sẽ dự báo tình hình ra sao và cần chuẩn bị như thế nào trong thời gian tới.
Theo tôi, quan trọng đầu tiên là phải giải quyết dứt điểm dịch COVID-19. Việt Nam phải có thuốc đặc trị và vaccine hữu hiệu, để biến COVID-19 thành bệnh cúm bình thường.
Chúng ta không thể chờ từ nước ngoài được, phải độc lập tự chủ. Hiện Chính phủ và Bộ Y tế đã có chủ trương rất rõ ràng về vấn đề này. Và tất nhiên lực lượng quân đội cũng sẽ đóng góp tích cực.
Mới đây, WHO công nhận bộ kit xét nghiệm COVID-19 của Học viện Quân y Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đó chỉ là một trong các vấn đề chúng ta phải giải quyết.
Thứ hai là chuẩn bị về cách sống mới, xã hội mới, có khả năng thích ứng với điều kiện thảm họa. Làm sao để giữ gìn sức khỏe, tránh lây lan dịch bệnh. Đây không phải là vấn đề mới. Chúng ta cần quay lại các vấn đề cơ bản như vệ sinh cá nhân, được dạy cho học sinh ở tuổi mới lớn. Đó là văn hóa khi tiếp xúc cộng đồng. Phải tự nhận thức được sức khỏe của mình là đáng quý, có tinh thần chung với tính kỷ luật cao, tuân thủ luật pháp. Tôi cho rằng đây cũng là thời cơ để chúng ta nâng cao văn minh xã hội, cách ứng xử.
Thứ ba, phải chuẩn bị về trang bị, điều kiện, nguồn lực để đối phó với những tình hình xấu như thế hoặc hơn. Chúng ta là một nước đang phát triển còn nhiều khó khăn, nhưng đây vẫn là ưu tiên tôi cho rằng quốc gia cần phải quan tâm, để khi tình huống xảy ra thì chúng ta chí ít có đủ trang bị nguồn lực để xử lý bước đầu dịch bệnh. Trên cơ sở đó, chúng ta dồn nguồn lực của quốc gia vào để giải quyết tập trung thì mới có thể yên tâm.
Thứ tư, trong dịch COVID-19, Việt Nam có uy tín quốc tế rất đáng khích lệ. Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia làm tốt trong dịch COVID-19. Đồng thời chúng ta cũng được đánh giá dù là nước khó khăn, nhưng đã làm rất tốt việc chia sẻ trong công tác phòng chống COVID-19. Trong nỗ lực thực hiện chủ trương chung của chính phủ, thì quân đội cũng tham gia tích cực.
- Trong hợp tác quốc tế chống dịch, quân đội cũng được đánh giá là đi đầu…
Đặc thù của việc chống dịch vừa là vấn đề y tế, xã hội vừa là vấn đề quốc phòng, trên cơ sở khái niệm mới của thế giới, đó là thách thức, đe dọa an ninh phi truyền thống. Ngay từ khi chúng ta bắt đầu phòng chống dịch COVID-19, quân đội đã xác định là hợp tác chống dịch COVID-19 vừa là yêu cầu, vừa là trách nhiệm của Việt Nam về mặt quốc phòng.
Chúng ta lại đang nắm vai trò Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp Quốc.
Vào tháng 2, có một hội nghị rất quan trọng của Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN được tổ chức. Lúc bấy giờ dịch mới bắt đầu, khi cuộc họp diễn ra ở Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đưa ra một đề nghị là ra Tuyên bố chung của các nước ASEAN về hợp tác phòng chống dịch COVID-19.
Có Bộ trưởng Quốc phòng hỏi rằng điều đó có thực sự cần thiết không? Chúng ta đã kiên trì giải thích và trong một thời gian kỷ lục là hai ngày chúng ta đã ra được Tuyên bố chung.
Cho đến nay, bản Tuyên bố chung này hoàn toàn phù hợp với thực tế và mong muốn của các quốc gia.
Một ví dụ khác, chúng ta đã tổ chức một loạt các Hội nghị của các nước ASEAN, các nhóm làm việc, nghiên cứu, Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng với yêu cầu bảo vệ sức khỏe ở mức cao nhất, có chuẩn bị và diễn tập.
Các Bộ trưởng Quốc phòng khi sang Việt Nam rất ngạc nhiên khi chúng ta đề nghị đây là Hội nghị đầu tiên không bắt tay, không chụp ảnh theo phong cách ASEAN là bắt chéo tay, và cách ly ngay lập tức tất cả các đoàn khi sang Việt Nam.
Việt Nam có những bệnh viện dự phòng để bất kỳ thành viên nào nếu nhiễm bệnh đều được cách ly ngay lập tức. Sau khi hội nghị kết thúc, chúng tôi cũng đề nghị các nước sau 14 ngày trả lời về tình trạng sức khỏe. Rất vui cho chúng ta, tất cả các quốc gia, nhất là các bộ trưởng quốc phòng trả lời đều khỏe mạnh.
- Tàu sân bay Mỹ USS Theodore Roosevelt đã được “giữ sạch” khỏi virus corona, nhưng tiếc là con tàu đó lại không giữ được an toàn sau khi rời khỏi Việt Nam…
Vào thời điểm đầu tháng 3, khi dịch bắt đầu gây hoang mang dư luận quốc tế, tàu sân bay Mỹ thăm Đà Nẵng. Tổng số thuyền viên, nhân viên kỹ thuật trên tàu sân bay là gần 7.000 người, chưa kể thân nhân bay sang thăm Đà Nẵng cùng các thuyền viên. Chúng ta làm rất chặt quy định về phòng chống dịch.
Tất cả các thủy thủ lên bờ đều phải kiểm tra, không bị nhiễm COVID-19 mới được lên bờ. Sau khi lên bờ, nghỉ ngơi, giao lưu, trước khi xuống tàu cũng phải kiểm tra, đảm bảo không bị nhiễm mới được xuống tàu. Chúng tôi yêu cầu sau 14 ngày, đề nghị phía Mỹ trả lời là có ai bị nhiễm không. Tới ngày 20/3, tức là 14 ngày sau đó, Mỹ trả lời là an toàn. Đáng tiếc là giờ thì tàu của họ lại nhiễm bệnh.
Những việc này cho thấy Bộ Quốc phòng Việt Nam thực hiện đúng chỉ thị của Chính phủ nhưng cũng rất sáng tạo, chủ động.
- Chúng ta sẽ tiếp tục có những hợp tác quốc phòng gì trong chống dịch COVID-19 nữa, thưa Thượng tướng?
Sắp tới đây, trong ít ngày nữa chúng ta sẽ họp nhóm làm việc cấp thứ trưởng Bộ Quốc phòng các nước ASEAN về việc chuẩn bị cho cuộc diễn tập quân y trực tuyến các nước ASEAN về việc phòng chống dịch nói chung, nhưng mở rộng là phòng chống an ninh phi truyền thống.
Các nước ASEAN, theo sáng kiến của Việt Nam, đồng ý xây dựng Bộ quy tắc ứng phó dịch bệnh và các thách thức an ninh phi truyền thống. Các nước nói rằng, đây là 2 nội dung không có trong chương trình mà được làm tốt đã chứng tỏ Việt Nam xứng đáng là Chủ tịch ASEAN năm 2020.
Không chỉ là có các nước ASEAN, các đối tác như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản cũng muốn tổ chức các cuộc họp tương tự ở tầm cao hơn. Chúng tôi đang nghiên cứu vấn đề này, nếu các nước ASEAN đồng thuận, sẽ tổ chức các cuộc họp trong khuôn khổ hợp tác ADMM vào khoảng quý 3 năm nay.
- Qua đại dịch này, thế giới đã biết đến một Việt Nam đầy hào hiệp, như Tổng thống Donald Trump đã nói…
Về quan hệ song phương, Việt Nam sẵn sàng chia sẻ theo khả năng của mình. Đầu tháng 3, Trung Quốc khủng hoảng về vật tư y tế và đã nhờ Việt Nam hỗ trợ.
Nên nhớ, Trung Quốc là một nước lớn với tiềm lực quốc phòng, kinh tế, khoa học kĩ thuật hơn chúng ta rất nhiều. Nhưng Việt Nam vẫn giúp nước bạn về trang bị y tế đúng với yêu cầu của Trung Quốc.
Việt Nam tặng Trung Quốc vật tư, thiết bị y tế tốt nhất phòng chống COVID-19.
Đại sứ Trung Quốc, khi tiếp nhận món quà viện trợ này, cũng nói với Bộ Quốc phòng Việt Nam là “cảm ơn Việt Nam”, đề cao sự hào hiệp cũng như quan tâm của Việt Nam với Trung Quốc.
Với Lào, Campuchia, hai nước bạn có mối quan hệ đặc biệt với Việt Nam, thì chúng ta cũng giúp bạn như thời chiến tranh. Trung ương giúp Trung ương, địa phương giúp địa phương. Việt Nam cử các tổ chuyên gia giúp bạn về mặt chính sách, điều hành quốc gia cũng như chữa trị và đối phó với dịch bệnh.
Các địa phương đưa người, thiết bị sang giúp đỡ nước bạn, đồng thời cũng giúp Việt kiều ở hai nước bạn vượt qua khó khăn. Những đóng góp ấy của Việt Nam được các nước đánh giá rất cao.
Không chỉ với Trung Quốc, Lào hay Campuchia mà một số nước lớn như Anh, Đức, Nhật Bản cũng đề nghị Việt Nam hỗ trợ, chia sẻ kinh nghiệm. Đây là lần đầu tiên một nước nghèo, gặp khó khăn như chúng ta lại đi hỗ trợ các nước lớn như vậy. Đây là điều đáng tự hào.
Việt Nam có thể còn nghèo, khó khăn nhưng đã giúp thì giúp thứ tốt nhất và thứ được thế giới thừa nhận. Chúng ta tuyệt đối không giúp bất cứ quốc gia nào những thứ mà họ không dùng được, đánh giá thấp trừ vấn đề liên quan dự trữ quốc gia để phục vụ cho đất nước, Chính phủ phòng chống dịch.
Ngoài ra, những gì chúng ta có thể, chúng ta đều giúp bạn một cách rất chân tình, có trách nhiệm.
Nhưng chúng ta cũng nhận được sự giúp đỡ từ các quốc gia khác.
Ở đây, tôi đặc biệt muốn nói tới nước còn đang gặp khó khăn về kinh tế như Cuba, nhưng luôn sẵn sàng hỗ trợ chúng ta vô tư, chí tình và thực chất.
Với năng lực vượt trội trong nghiên cứu công nghệ sinh học, ngay khi nhận được đề nghị hợp tác của Việt Nam, các đồng chí Cuba đã nhanh chóng phối hợp với chúng ta tổ chức các buổi trao đổi trực tuyến cấp chuyên gia để chia sẻ kinh nghiệm phòng, chống dịch; đồng thời chủ động tuyên bố sẽ tặng Việt Nam 1.000 liều thuốc để chữa trị cho 1.000 bệnh nhân nặng.
Cuba cũng đã thông báo với chúng ta công nghệ mà họ có để sản xuất thuốc có thể chống dịch COVID-19 cũng như thuốc chống dịch bệnh. Các chuyên gia hàng đầu về y học sinh học của Cuba cũng sẵn sàng sang Việt Nam để phối hợp nghiên cứu và triển khai hoạt động phòng, chống dịch.
Đối với cộng đồng quốc tế, trong chiến dịch chống đại dịch COVID-19 này, Cuba đã cung cấp thuốc hỗ trợ điều trị cho 40 nước và chuyên gia cho 10 nước, kể cả những nước lớn và giàu có như châu Âu. Chúng tôi đánh giá rất cao sự hào hiệp cũng như tấm lòng của Cuba với Việt Nam và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Về quan hệ quốc tế, quốc phòng, qua lúc khó khăn này, chúng ta biết ai là bạn, ai là đối tác thông thường. Khi mình gặp khó khăn ai sẽ giúp đỡ mình, ai sẽ quay lưng với mình. Đồng thời, chúng ta cũng có thể thấy chính sách đối ngoại của chúng ta trong những năm vừa qua, đường lối hết sức đúng đắn với các nước láng giềng và các nước đối tác trên toàn thế giới.
Láng giềng là phải giúp nhau, quay lưng là không được. Thứ hai là các nước bạn bè cũ. Thứ ba là các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ASEAN. Đó là những nước mà chúng ta có niềm tin trong đợt vừa rồi và cũng là niềm tin của chúng ta trong những bước phát triển tiếp theo để bảo đảm an ninh cho đất nước, trong khu vực cũng như trên thế giới.
- Quân với dân như cá với nước. Trong đại dịch này, ý nghĩa câu nói lại càng trở nên rõ ràng hơn, thưa ông?
Xác định nhiệm vụ của quân đội trong phòng chống dịch COVID-19, việc giúp dân cũng như tham gia vào nhiệm vụ chung của Đảng và Nhà nước và Chính phủ là nhiệm vụ thường xuyên của quân đội.
Tuy nhiên, từ nhiệm kỳ này, với nhận thức mới về những thách thức an ninh phi truyền thống, chúng ta đưa việc giúp dân vào nhiệm vụ quốc phòng.
Bộ đội chuẩn bị bữa ăn cho người dân trong khu cách ly. (Ảnh: Việt Linh)
Tôi còn nhớ đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong phiên họp Quân ủy đầu tiên của khóa này có nói rằng giờ đây những việc đó không còn là giúp dân nữa mà là nhiệm vụ thường xuyên của quân đội. Đã là nhiệm vụ thường xuyên thì phải xác định nhiệm vụ, phải có nắm tình hình, có huấn luyện, trang bị để đáp ứng yêu cầu.
Vì thế, trong dịp COVID-19 này, mặc dù quân đội còn khó khăn song đã vào cuộc rất chủ động. Chúng ta được trang bị những thứ thiết yếu để thực hiện nhiệm vụ được giao, chuẩn bị tinh thần cho bộ đội. Bộ đội giờ đây không chỉ biết cầm súng mà còn làm thay phần việc của bác sĩ, y sĩ để làm nhiệm vụ cách ly, nấu cơm, nuôi người dân trong các khu cách ly.
Đây là những nhiệm vụ mới, nhận thức mới song chúng ta đã thực hiện rất tốt.
Trên thực tế, tiếp xúc với những người bệnh, những người cách ly, không ai không nghĩ đến gia đình mình và không ai không nghĩ đến môi trường xung quanh mình có an toàn hay không.
Song không ai từ chối nhiệm vụ. Điều đó cho thấy nỗ lực, đóng góp của những cán bộ làm công việc trực tiếp nói riêng và lực lượng quân đội nói chung trong thời gian qua.
Đóng góp của quân đội cơ bản xuất phát từ nhận thức cũng như ý thức của cán bộ, chiến sĩ vốn đã được giáo dục từ trước cũng như sự chuẩn bị kịp thời, cần thiết về mặt lực lượng, con người, trang thiết bị cần thiết ngay sau khi Chính phủ có chỉ thị.
- Đại dịch được nhận định là sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề về an ninh phi truyền thống, như Thượng tướng đã nói. Vậy quân đội sẽ phải chuẩn bị những gì để đương đầu với những nguy cơ đó, thưa ông?
Về nhiệm vụ chiến lược, trước hết, quân đội phải nắm được tình hình, không để bị động, bất ngờ về mặt chiến lược. Tình hình cụ thể đây là những nguy cơ, đe dọa về quốc phòng, đó là vấn đề chủ quyền, ổn định chế độ và những vấn đề về an ninh phi truyền thống.
Nhiệm vụ chiến lược này nhằm đáp ứng hai mục tiêu. Một là bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, hai là bảo vệ hòa bình. Đây là nhiệm vụ rất khó khăn trong tình hình hiện nay, song khó đến mấy cũng phải làm.
Để làm được những nhiệm vụ này, có rất nhiều yêu cầu đặt ra đối với lực lượng quân đội trong thời gian tới. Trong đó, việc quan trọng nhất đó là tăng cường nguồn nhân lực chất lượng cao cho quân đội, từ người chỉ huy cao nhất cho đến người chiến sĩ.
Trong bối cảnh thế giới hội nhập, toàn cầu hóa, bùng nổ về cách mạng 4.0, tốc độ các nguy cơ, thách thức diễn ra rất nhanh. Chúng ta không thể trông chờ ai nói hộ hay dự báo hộ mình được.
Do đó, Quân uỷ Trung ương xác định xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho quân đội cũng như cho thế trận quốc phòng toàn dân là nhiệm vụ then chốt. Trong đó, có phẩm chất chính trị, có kiến thức về quốc phòng quân sự và những kiến thức chung, từ đó mới để có thể đáp ứng yêu cầu.
- Xin cảm ơn Thượng tướng!
Bộ đội ta có những kỹ năng đặc biệt khiến Liên Hợp Quốc khâm phục
Đó là những chia sẻ của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trong cuộc trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ nhân dịp đầu xuân, năm mới, xung quanh nhiệm vụ quân đội ta đang tham gia nhiều hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc và những chuẩn bị của Bộ Quốc phòng cho năm ASEAN 2020.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: VGP
Xin Thượng tướng đánh giá về tầm quan trọng của các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc?
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước giao cho quân đội và chúng ta đã tiến hành được 5 năm. Ý nghĩa đầu tiên của việc chúng ta tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc thể hiện trách nhiệm của Việt Nam đối với hòa bình, an ninh của thế giới. Chúng ta là quốc gia có uy tín, đã nói là làm và chúng ta tham gia Liên Hợp Quốc không chỉ bởi mong muốn Liên Hợp Quốc ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam mà cũng đóng góp vào những hoạt động của Liên Hợp Quốc, mặc dù chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn.
Ý nghĩa thứ hai khi chúng ta tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc là để quảng bá và tôn vinh hình ảnh của đất nước, của quân đội Việt Nam, của nhân dân Việt Nam đối với bạn bè quốc tế. Ở đây không chỉ là ngoại giao đơn thuần mà là làm thật, việc thật. Đó là một thử thách và đối với nhiều quốc gia và là một thử thách rất khó khăn. Quân đội làm tốt nhiệm vụ của mình là quảng bá hình ảnh đất nước.
Và không chỉ như thế, Quân đội Việt Nam lại là một đội quân mẫu mực, là đội quân không vi phạm kỷ luật, không vi phạm các quy định của Liên Hợp Quốc. Quân đội Việt Nam là đội quân có chuyên môn giỏi, đây là đánh giá của Liên Hợp Quốc.
Mặt khác, khi rèn luyện kỹ năng công tác, hoạt động và chiến đấu trong môi trường khắc nghiệt ở những khu vực xa xôi như châu Phi sẽ tạo cho chiến sĩ của chúng ta những kỹ năng mới, yêu cầu mới theo quy chuẩn của thế giới.
Tôi ví dụ như hoạt động quân y, bác sỹ quân y của chúng ta có thể chữa bệnh rất tốt nhưng Liên Hợp Quốc có hơn 90 quy trình chuẩn để mà bất kỳ một bệnh nào, trường hợp bệnh nhân nào cũng phải theo đúng quy trình ấy. Chúng ta phải rèn luyện cho bộ đội để không bị sai sót, không phạm lỗi trong quy trình khắt khe đó.
Chúng tôi cũng đã thấy bất ngờ và tự hào khi bộ đội ta có những kỹ năng đặc biệt khiến Liên Hợp Quốc khâm phục. Đây là các kỹ năng mà quân đội của nhiều nước mong muốn có được, ví dụ như khả năng thích nghi trong môi trường khắc nghiệt, khả năng tổ chức cuộc sống. Bộ đội ta rất giỏi khả năng ứng phó trong những điều kiện không đầy đủ, chỉ trong thời gian rất ngắn đã trực chiến và chữa bệnh cho số lượng lớn bệnh nhân quân sự và dân sự.
Ý nghĩa cuối cùng khi chúng ta tham gia vào hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc là tạo môi trường thử thách cho các cán bộ, chiến sĩ. Công tác ở địa bàn xa là bài tập kiểm tra lại xem người lính Việt Nam sẽ làm việc như thế nào, năng lực đến đâu. Và kết quả, chúng ta hoàn toàn yên tâm khi kinh nghiệm của quân đội ta trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, giải phóng đất nước đã hoàn toàn có thể áp dụng trong thời bình, để kiến tạo hòa bình và an ninh của đất nước mình cũng như của thế giới.
Thượng tướng có nói trong 5 năm vừa qua, lực lượng gìn giữ hòa bình đã làm được rất nhiều việc. Trong thời gian tới, theo Thượng tướng, chúng ta sẽ đề ra những thử thách, phương hướng và những mục tiêu nào?
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Về chủ trương, về những nội dung, bước đi đều đã nằm trong Đề án của Bộ Chính trị và Chính phủ, chúng ta sẽ mở dần các hoạt động quân sự hòa bình Liên Hợp Quốc.
Tuy nhiên là yêu cầu của Liên Hợp Quốc đối với chúng ta trong việc này rất rộng, rất cao. Điều đó cũng xuất phát một phần từ chính chúng ta đã làm rất tốt giai đoạn đầu và đã tạo được sự tin tưởng cho họ. Vì vậy, Liên Hợp Quốc đề nghị chúng ta mở rộng các hoạt động. Ví dụ như bên cạnh Quân y, họ còn mong chúng ta cử đội Công binh đi. Rồi không chỉ là Công binh mà chúng ta dự kiến cử các lực lượng Bộ binh nhưng không tham gia xung đột mà bảo vệ căn cứ, hay các chuyên gia nghiên cứu quân sự, rồi đội sĩ quan cảnh sát đi để làm công tác tham mưu.
Đặc biệt hơn nữa, trong quá trình công tác tại các quốc gia, các phái bộ, Liên Hợp Quốc đã chính thức mời một số sỹ quan của chúng ta làm cán bộ chỉ huy tại phái bộ cũng như ở trụ sở Liên Hợp Quốc. Đây là điều chúng ta hướng đến nhiều năm mà chưa được. Sắp tới đây tôi sẽ nghiên cứu và báo cáo cấp có thẩm quyền để cử các đồng chí đi với tư cách là sỹ quan chỉ huy của một phái bộ hoặc là sỹ quan tham mưu của trụ sở Liên Hợp Quốc. Đó cũng chính là một sự hiện diện mới của quốc phòng, quân sự Việt Nam ở trên môi trường quốc tế.
Trên cương vị là Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng về ASEAN 2020 - trong thời điểm công tác chuẩn bị cho các hội nghị, hoạt động quốc phòng-quân sự ASEAN trong năm Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN 2020 đang được tiến hành, Thứ trưởng có thể cho biết ý nghĩa của năm Chủ tịch ASEAN 2020 trong việc quảng bá hình ảnh quốc phòng, quân sự Việt Nam đối với bạn bè quốc tế?
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Năm 2020, Việt Nam là chủ nhà ASEAN, Đảng và Nhà nước đang hết sức quan tâm, chúng ta phải tổ chức thật tốt Năm Chủ tịch ASEAN tại Việt Nam với mục đích hoà bình, ổn định, phát triển cùng hợp tác khu vực và trên thế giới.
Trong chủ trương chung đó, đối ngoại quốc phòng cũng tổ chức một loạt sự kiện quốc phòng, quân sự trong khuôn khổ ASEAN và ASEAN , rộng hơn là các nước châu Á-Thái Bình Dương cũng như các quốc gia có liên quan.
Chủ trương quan trọng nhất của các hội nghị quân sự, quốc phòng là thể hiện sự minh bạch, mạnh mẽ quan điểm của Đảng, Nhà nước về an ninh quốc phòng và quân sự. Đó là quan điểm độc lập, tự chủ, quan điểm đa phương hoá, đa dạng hoá, quan điểm hợp tác, hoà bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh, tình hình rất phức tạp hiện nay, các nước lớn tăng cường can dự và cạnh tranh chiến lược, tạo nên "nhiệt độ" càng ngày càng nóng lên tại nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có châu Á-Thái Bình Dương. Mong muốn và nỗ lực Việt Nam hướng tới là làm sao để các quốc gia trong cũng như ngoài khu vực có thể giải quyết bất đồng, khác biệt về lợi ích thông qua đối thoại bằng biện pháp hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đó là mục tiêu quan trọng nhất mà chúng ta hướng tới.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải tập trung, quan tâm đến quảng bá hình ảnh của đất nước và cụ thể ở đây là quân đội ta. Bên cạnh việc quảng bá lịch sử vẻ vang của dân tộc, của quân đội ta qua nhiều cuộc kháng chiến thắng lợi, chúng ta cần tập trung hơn nữa quảng bá tính chất hoà bình, tự vệ của quân đội Việt Nam để bạn bè quốc tế thấy rằng chúng ta củng cố quốc phòng nhằm mục đích củng cố hoà bình, đem lại xu thế đối thoại và hợp tác của quân đội Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thứ trưởng có thể cho biết một số nét nổi bật của Đề án tổ chức các hội nghị quốc phòng, quân sự ASEAN 2020?
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Chúng ta vạch ra một đề án hết sức chi tiết với mục đích làm sao các quốc gia tham gia thấy rằng khi đến Việt Nam, ở Hà Nội thì tất cả đều có thể ngồi với nhau bàn về hòa bình và hợp tác.
Với mục đích như vậy chúng ta dự kiến có tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng các nước ASEAN về nâng cao tính đoàn kết, thống nhất, vai trò trung tâm của ASEAN với các vấn đề trong khu vực.
Đây là tuyên bố cấp Bộ trưởng ASEAN nhưng cũng đồng thời là tuyên ngôn đối với thế giới về ASEAN mong muốn hòa bình, không quân sự hóa, không muốn cạnh tranh chiến lược tạo ra các xung đột ảnh hưởng tới hòa bình, an ninh trong khu vực.
Trong khuôn khổ ADMM , chúng ta mong muốn xây dựng Tuyên bố về tầm nhìn chiến lược, an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó vạch ra các nguy cơ, thách thức liên quan tới khu vực đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản để có thể giải quyết các thách thức ấy thông qua đối thoại, bằng các giải pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế tôn trọng lẫn nhau, nước lớn cũng như nước nhỏ, không để cho những nước nhỏ buộc phải lựa chọn phải đứng ở bên này hay bên kia.
Ngoài ra, chúng ta cũng có tuyên bố chủ nhà của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam thể hiện quan điểm của Việt Nam và đánh giá sự thành công của năm ASEAN do Việt Nam làm Chủ tịch.
Đây là năm kỷ niệm 10 năm ADMM và cũng là một trong những hoạt động rất quan trọng, chúng ta phải đánh giá lại 10 năm qua đã làm gì cho hòa bình, an ninh khu vực, cần phải làm gì nhiều hơn, có cần phải mở rộng nữa không, biến từ diễn đàn đối thoại thành một tổ chức hợp tác hay không? Tất cả những cái này chúng ta đều cân nhắc để lấy ý kiến. Chúng ta cũng sẽ tổ chức một số sự kiện như lễ diễu binh tàu hải quân nhân 65 năm thành lập Hải quân Việt Nam gắn liền với Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN. Lễ diễu binh này không chỉ mời các nước ASEAN mà mời tất cả các quốc gia là đối tác, bạn bè của Việt NAm. Ngoài ra, còn có các sự kiện giao lưu văn hóa, thể thao, quân nhạc và nhiều nội dung khác.
Bên cạnh đó, còn một số nước đối tác đề xuất các sự kiện mà họ mong muốn. Ví dụ như Trung Quốc mong muốn được tổ chức giao lưu sĩ quan trẻ Trung Quốc và ASEAN. Đây là đề nghị của Trung Quốc, nếu các nước ASEAN đồng ý thì Việt Nam sẽ tổ chức, hoặc ở Trung Quốc hoặc ở Việt Nam, do quyết định chung của ASEAN cũng như Trung Quốc. Nói như vậy có nghĩa là các nước khác khi có yêu cầu tương tự thì chúng ta sẽ đáp ứng miễn là các nước ASEAN đồng thuận và sự kiện đó tạo ra tác động tích cực cho không khí chung của năm ASEAN tại Hà Nội.
Việt Nam dự kiến đưa ra vấn đề gì liên quan đến Việt Nam cũng như các nước trong khu vực, ví dụ như vấn đề Biển Đông khi diễn biến thực địa ngày càng phức tạp, tại các hội nghị liên quan đến quốc phòng khi Việt Nam đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN?
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Một quốc gia đã có nhiều vấn đề quan tâm và thách thức về an ninh, với 10 nước ASEAN thì sự quan tâm ấy có rất nhiều, chưa kể các nước đối tác của khối. Trong khu vực ASEAN cũng như châu Á-Thái Bình Dương hiện nay hội đủ tất cả thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống ảnh hưởng tới hòa bình ổn định khu vực.
Ví dụ, vấn đề Biển Đông không chỉ là mối quan tâm của Việt Nam mà còn là của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực cũng như các nước có lợi ích liên quan tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Chúng ta cần khẳng định, an ninh an toàn hàng hải ở Biển Đông là lợi ích chung của khu vực và cả thế giới. Vấn đề này phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế để đi đến sự ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực này. Đây là mối quan tâm mà chắc chắn chúng ta đề cập đến cũng như thách thức về an ninh khác.
Cọ sát chiến lược của các nước lớn là điều tất yếu trong quá trình phát triển, nhưng cọ sát ấy không được và không nên ảnh hưởng đến lợi ích của các nước khác trong khu vực, mà vấn đề an ninh, an toàn hàng hải hàng không ở Biển Đông là một ví dụ.
Chúng ta một mặt đấu tranh bảo vệ chủ quyền, mặt khác chúng ta phải đấu tranh để bảo vệ môi trường hòa bình, và lợi ích chung của Biển Đông với cộng đồng quốc tế. Đây là chủ trương mà các hội nghị quân sự, quốc phòng của chúng ta sẽ hướng đến.
Trân trọng cám ơn Thượng tướng!
Nhật Nam (thực hiện)
Theo QĐND
Bệnh viện Dã chiến 2.1 đóng góp to lớn trong việc gìn giữ hòa bình của Liên hiệp quốc Chiều 5-12, tại TPHCM, Bộ Quốc phòng đã tổ chức lễ tuyên dương Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 (BVDC 2.1) hoàn thành nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Phái bộ Cộng hòa Nam Sudan trở về nước. Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình trao Huân chương Bảo vệ Tổ quốc cho Cục Gìn giữ...