Thương hiệu Việt hội nhập – Bài 1: Hướng đến tăng trưởng xanh
Sau hơn 2 năm dịch COVID-19 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp trên thị trường trong và ngoài nước.
Cùng với đó, những biến động địa chính trị, kinh tế… của một số quốc gia đã tạo ra không ít thách thức cho cộng đồng doanh nghiệp.
Riêng đối với doanh nghiệp Việt cũng trong xu hướng chủ động, linh hoạt, chuyển mình vượt lên khó khăn để vững vàng trên hành trình hội nhập quốc tế và khẳng định thương hiệu Việt. Ngày càng nhiều thương Việt được xây dựng và phát triển trên nền tảng chất lượng, tiêu chuẩn đã chinh phục được người tiêu dùng tại thị trường nội địa, cũng như xuất khẩu.
Phóng viên TTXVN thực hiện chủ đề “Thương hiệu Việt hội nhập”, nhằm thông tin về hành trình xây dựng và phát triển của những doanh nghiệp. Đồng thời, ghi nhận ý kiến chuyên gia, cơ quan quản lý… về sự đóng góp của những thương hiệu Việt đã vươn lên, phát triển cùng đất nước, khẳng định vị thế trong khu vực và thế giới.
Khu Công nghệ cao, quận 9, TP Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu: Quang Nhựt/TTXVN
Bài 1: Hướng đến tăng trưởng xanh
Việt Nam là một trong những nền kinh tế có độ mở và hội nhập sâu rộng vào thị trường toàn cầu thông qua chính sách ngoại giao, nhất là tham gia đa dạng Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu. Riêng Tp. Hồ Chí Minh có cơ hội đón làn sóng đầu tư của doanh nghiệp FDI và nguồn vốn xanh trong nhiều năm trở lại đây. Những doanh nghiệp FDI gia nhập thị trường nội địa không chỉ đóng góp vào nền kinh tế quốc gia, địa phương, mà còn tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng công nghiệp xanh, tạo tăng trưởng trực tiếp và thúc đẩy phát triển bền vững.
Phát triển nhanh và bền vững
Theo Bộ Ngoại giao, sau hơn hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Khát vọng về một Việt Nam phát triển bền vững đã được thể hiện ở mục tiêu đưa đất nước gia nhập hàng ngũ nước có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc cho biết, quan điểm phát triển của Việt Nam trong giai đoạn 10 năm tới là phát triển nhanh và bền vững, đồng thời phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biển đổi khí hậu”, ngày 1/10/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, với mục tiêu tổng quát là thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.
Thứ trưởng Hà Kim Ngọc chia sẻ, nếu nhìn nhận nguồn lực quốc gia theo tư duy và cách tiếp cận mở, cần phải gắn nguồn lực trong nước với nguồn lực ngoài nước, kết hợp hài hòa nội lực và ngoại lực. Trong đó, các địa phương, doanh nghiệp, người dân, không chỉ là trung tâm, động lực, đối tượng thụ hưởng, mà còn là những chủ thể nòng cốt và đi đầu hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Ở góc độ địa phương, ông Võ Văn Hoan, Phó Chủ tịch UBND Tp. Hồ Chí Minh cho hay, một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam đang bước sang một giai đoạn phát triển mới là phải huy động, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển, trong đó vốn FDI “xanh” đóng vai trò quan trọng. Với bối cảnh dịch COVID-19 đã từng bước được kiểm soát, Tp. Hồ Chí Minh quyết tâm không để lỡ cơ hội phục hồi kinh tế.
Video đang HOT
Tp. Hồ Chí Minh đã xác định chủ đề năm 2022 là “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19, tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng chính quyền đô thị, cải thiện môi trường đầu tư, đồng hành cùng doanh nghiệp”. Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh cũng ban hành chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội thành phố giai đoạn 2022-2025; trong đó giai đoạn phục hồi đến hết năm 2022 và giai đoạn phát triển từ năm 2023 đến năm 2025.
Với vai trò là một trong những đầu tàu của nền kinh tế Việt Nam, trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Tp. Hồ Chí Minh đang không ngừng phấn đấu hướng đến một cơ cấu kinh tế năng động, giá trị gia tăng cao và ít ô nhiễm môi trường. Để thực hiện mục tiêu thu hút có chọn lọc nguồn vốn FDI, nhưng vẫn đảm bảo tăng trưởng nguồn vốn này, Tp. Hồ Chí Minh sẽ cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh nhằm thích ứng với nền sản xuất mới trong cuộc Cách mạng công nghệ 4.0.
Trong đó, Tp. Hồ Chí Minh ưu tiên thu hút những tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp nước ngoài có quy mô lớn, trình độ khoa học công nghệ cao đầu tư vào đa dạng dự án có cam kết sử dụng năng lượng, vật liệu xanh. Đồng thời xác định, hoạt động thu hút nguồn vốn FDI cần tạo bước đột phá để tận dụng triệt để lợi thế của Tp. Hồ Chí Minh, gồm nguồn nhân lực chất lượng cao trình độ phát triển công nghệ đang tiệm cận với khu vực; cơ sở hạ tầng đang được tập trung đầu tư tương đối hoàn chỉnh; môi trường đầu tư được cải thiện…
Động lực từ các địa phương
Theo một số chuyên gia, đặt mục tiêu tăng trưởng xanh ở vị trí trung tâm của chiến lược quy hoạch tổng thể và kế hoạch hành động phát triển kinh tế – xã hội địa phương có giá trị và ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển một Việt Nam bền vững. Điều này sẽ giúp định hướng thu hút đầu tư, cũng như hỗ trợ và giám sát hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tại địa phương, tránh rủi ro về khai thác, sử dụng tài nguyên đất nước lãng phí.
Việt Nam có một số thuận lợi, trước hết là quyết tâm của Đảng, Nhà nước và Chính phủ trong việc đẩy nhanh chuyển đổi nền kinh tế sang hướng xanh, bền vững. Đây không chỉ là xu hướng chung của thế giới mà là nhu cầu bức thiết của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Sự nhận thức của các địa phương, doanh nghiệp, người dân về sự cần thiết của sự phục hồi và tăng trưởng xanh, bền vững tại Việt Nam gia tăng lớn trong thời gian vừa qua. Mặt khác, nhiều đối tác nước ngoài cũng đang trong quá trình tái cấu trúc lại mô hình tăng trưởng và hợp tác với bên ngoài theo hướng xanh, bền vững đã mở ra rất nhiều cơ hội hợp tác cho các địa phương, doanh nghiệp, người dân Việt Nam tiếp cận làn sóng sản xuất và tiêu dùng xanh.
Hầu hết tỉnh, thành đều thể hiện rất rõ về sứ mệnh và tầm nhìn phải đảm bảo tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, nhưng trên thực tế đòi hỏi những điều kiện cần và đủ nhất định để thực thi chuyển đổi xanh. Trong đó, có thể kể đến yêu cầu đổi mới công nghệ, quy hoạch, phát triển hạ tầng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và những chi phí tài chính khác cũng không dễ dàng đáp ứng, nhất là trong bối cảnh khó khăn và còn nhiều thách thức như hiện nay.
Vấn đề đặt ra là làm sao huy động và hội tụ được nguồn lực, thúc đẩy được những nỗ lực, sáng kiến và hành động không ngừng của các bên liên quan, tạo ra sức mạnh cộng hưởng với phương châm “một hành động nhỏ, nhiều thay đổi lớn”.
Theo tính toán sơ bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cũng như Ngân hàng Thế giới, để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đến năm 2030 dự kiến cần khoảng 30 tỷ USD, trong đó ngân sách Nhà nước chỉ có thể đáp ứng tối đa khoảng 30% nguồn lực và cần tới 70% từ các nguồn lực khác, trong đó chủ yếu được xác định là khu vực tư nhân.
Ghi nhận tế tại một số địa phương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng ưu tiên thu hút doanh nghiệp có năng lực đổi mới sáng tạo và năng lực quản trị tiên tiến; khuyến khích đầu tư phát triển ngành nghề sản xuất, kinh doanh, tạo động lực trực tiếp cho tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế như đổi mới sáng tạo, công nghệ cao, năng lượng tái tạo, lĩnh vực thâm dụng khoa học công nghệ… Đại diện một số tỉnh, thành cho rằng, chuyển đổi số là chìa khóa để mở cánh cửa giao thương sâu rộng hơn với thế giới, từ đó thu hút nguồn lực tạo động lực trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế địa phương.
Điển hình, năm 2022, Tp. Hồ Chí Minh định hướng tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nền tảng hạ tầng số để phục vụ chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu, kết nối dữ liệu… nhằm phục vụ cộng đồng doanh nghiệp và phục vụ việc quản trị thành phố.
Giải pháp này, được kỳ vọng sẽ giúp minh bạch các cơ chế, chính sách, tạo niềm tin vững chắc cho doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước hoạt động lâu dài tại thành phố.
Còn theo bà Nguyễn Thị Hoàng, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ 10 và 11 đều đặt ra mục tiêu là tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Do đó, tại 31 khu công nghiệp đi vào hoạt động trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đều bắt buộc đáp ứng yêu cầu phải xử lý nước thải tập trung, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Trong những năm gần đây, ngày càng nhiều doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã chuyển đổi công nghệ mới, sử dụng ít lao động hơn và đối với công đoạn có ảnh hưởng đến sức khỏe của người lao động thì doanh nghiệp bắt đầu chuyển sang dùng robot. Đây là một xu thế góp phần vào việc tăng trưởng xanh và phát triển bền vững của tỉnh Đồng Nai.
Đặc biệt, tỉnh Đồng Nai cũng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bổ sung vào quy hoạch là 6.500 ha đất cho phát triển khu công nghiệp trong thời gian tới. Dự kiến, tỉnh Đồng Nai sẽ hình thành 8 khu công nghiệp nữa và ưu tiên phát triển khu công nghiệp sinh thái và khu công nghiệp hiện đại.
Tổng Bí thư: Đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia
Tổng Bí thư nhấn mạnh, đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là tư liệu sản xuất cơ bản, là tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân và nguồn lực to lớn của đất nước.
Ngày 4/5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII bắt đầu họp Hội nghị lần thứ năm. Phát biểu khai mạc hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý một số vấn đề liên quan đến nội dung của các báo cáo, đề án, có tính chất gợi mở, mong được các đại biểu quan tâm trong quá trình thảo luận, xem xét, quyết định.
Tham nhũng liên quan đến đất đai chậm được đẩy lùi
Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, Tổng Bí thư nhấn mạnh, đất đai là tài sản đặc biệt của quốc gia, là tư liệu sản xuất cơ bản, là tài nguyên vô cùng quý giá, là nguồn sống của nhân dân và nguồn lực to lớn của đất nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Theo Tổng Bí thư, nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất (Ảnh: Quốc Chính).
"Tôi đã nhiều lần nhắc lại câu nói của Các Mác rằng: "Lao động là cha, đất đai là mẹ của của cải vật chất"; nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất; mất cả tình nghĩa cha con, anh em, đồng chí cũng vì đất... Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian qua có tới hơn 70% số vụ tố cáo, khiếu nại thuộc về lĩnh vực đất đai", Tổng Bí thư nhấn mạnh.
Vì vậy, việc tổng kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XI về đất đai lần này là một yêu cầu cần thiết nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Theo Tổng Bí thư, đây là một lĩnh vực rất rộng lớn, cơ bản, hết sức phức tạp, nhạy cảm, đặc biệt quan trọng, hệ trọng đối với sự ổn định và phát triển bền vững đất nước, hiện vẫn còn không ít ý kiến khác nhau.
Tổng Bí thư yêu cầu các đại biểu tập trung làm rõ: Vì sao nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội? Vì sao ở nhiều nơi, việc sử dụng đất còn lãng phí, hiệu quả thấp; tệ tham nhũng, tiêu cực liên quan đến đất đai chậm được đẩy lùi, thậm chí gia tăng? Vì sao số vụ khiếu nại, tố cáo thuộc về lĩnh vực đất đai vẫn còn nhiều và phức tạp? Vì sao thị trường bất động sản phát triển thiếu lành mạnh, chưa bền vững và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro?
Tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn nhiều
Về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn , Tổng Bí thư đề nghị các đại biểu tham dự hội nghị tập trung nghiên cứu, thảo luận, tạo sự thống nhất cao về tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, đáp ứng yêu cầu phát triển của thời kỳ mới - đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đại biểu tham dự Hội nghị lần thứ năm (Ảnh: Quốc Chính).
Tiếp tục phát huy thật tốt những kết quả, thành tựu và bài học kinh nghiệm thành công đã đạt được; khắc phục triệt để những hạn chế, yếu kém còn tồn tại và nguyên nhân được rút ra trong quá trình tổng kết là: Nông nghiệp phát triển còn thiếu bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm, tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn dựa vào nông hộ nhỏ, thiếu liên kết trong sản xuất kinh doanh; kinh tế tập thể, hợp tác xã chậm phát triển.
Theo Tổng Bí thư, việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa trở thành động lực chính để tạo đột phá phát triển. Nhiều loại giống cây trồng, giống vật nuôi, vật tư đầu vào còn phụ thuộc việc nhập khẩu . Thu hút đầu tư cho phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn gặp nhiều khó khăn. Cơ giới hóa chưa đồng bộ, công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản phát triển còn chậm. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu.
Lao động nông thôn có xu hướng già hóa, năng suất lao động còn thấp. Thu nhập của phần lớn nông dân chưa cao, chênh lệch với thành thị và giữa các vùng, miền còn lớn; tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn còn nhiều, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng nông thôn mới chưa đồng đều, nhiều nơi chưa chú trọng đúng mức tới phát triển sản xuất, tạo sinh kế cho người dân; xây dựng đời sống văn hóa, bảo vệ môi trường; mức đạt tiêu chí nông thôn mới ở những vùng khó khăn còn thấp; nhiều vấn đề xã hội phát sinh, gây bức xúc trong nhân dân; ô nhiễm môi trường nông thôn gia tăng ở nhiều địa phương. Năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu còn yếu; phòng, chống thiên tai, dịch bệnh chưa đáp ứng yêu cầu.
Tăng năng lực quản lý phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu Chiều 21/4, tại Hà Nội đã diễn ra Lễ khởi động Dự án hỗ trợ kỹ thuật "Tăng cường năng lực quản lý phát triển đô thị ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua xây dựng hệ thống thông tin quản lý quy hoạch và phát triển đô thị Việt Nam (UPIS) do Bộ Xây dựng Việt Nam và Cơ quan...