Thuố.c Việt chật vật tìm thị trường
Thống kê của ngành y tế cho thấy, trên thị trường dược phẩm VN, thuố.c nội chỉ chiếm 50%. Trên thực tế, thuố.c nội đến thời điểm này vẫn còn sản xuất nhỏ lẻ, khó vào được bệnh viện (BV) lớn, đặc biệt là các BV chuyên khoa.
Bệnh nhân bỏ thuố.c nội
Một thực tế đang tồn tại lâu nay trong lĩnh vực y tế tại VN chính là việc BS ngại kê toa thuố.c nội cho bệnh nhân, bởi người tiêu dùng có tâm lý muốn mua thuố.c ngoại. Lâu nay, chỉ cần có thông tin thuố.c ngoại tăng giá là nhà thuố.c và người bệnh lại lo… Nhà thuố.c lo vì phải giải thích cho người bệnh mua thường xuyên tại sao tăng giá, còn người sử dụng lo vì phải mất thêm một khoản tiề.n. Điều đáng nói, nhiều loại thuố.c đã được nhượng quyền sản xuất tại VN với hoạt chất tương đương, giá thành rẻ và chỉ khác tên gọi, tuy nhiên, để loại thuố.c này đến tay người tiêu dùng quả thật không phải dễ.
Lãnh đạo TPHCM đang kiểm tra DN tham gia bán thuố.c Việt bình ổn giá.
Tại nhà thuố.c trước cửa BV Nhi Đồng 2 trên đường Nguyễn Du (Q.1, TPHCM), một gia đình có bệnh nhi 2,5 tuổ.i, ở Bình Thạnh sau khi khám BS nhận định bị viêm hô hấp và kê toa: Augmentin 500 (kháng sinh) và Enterogemina (men vi sinh) với 5 ngày uống. Khi nhân viên bán thuố.c đưa ra giá tiề.n Augmentin gần 20.000 đồng/gói và men vi sinh khoảng 8.000 đồng/ống với tổng cộng tiề.n thuốc gần 300.000 đồng/5 ngày thì người mua đành phải bấm bụng xin mua 2 ngày. Mặc dù không mang đủ tiề.n, nhưng khi người bán tư vấn chuyển sang thuố.c nội với hoạt chất tương đương, giá thành rẻ hơn 3 lần thì nhận được cái lắc đầu của người mua.
Theo đại diện các nhà thuố.c lớn như Eco, Long Châu, Mỹ Châu… trên đường Hai Bà Trưng (Q.3, TPHCM), lượng thuố.c nội bán ra chỉ chiếm khoảng 30 – 40% tổng số thuố.c, chủ yếu là thuố.c trị các bệnh thông thường. Còn thuố.c đặc trị thì số thuố.c nội chỉ đếm trên đầu ngón tay. BS Trần Thị Thu Loan – Trưởng khoa Hô hấp BV Nhi Đồng 2 – cho biết: “Nhiều lúc khi BS cho toa thuố.c, người nhà hỏi ngay: Thuố.c nội hay thuố.c ngoại”.
Càng lên tuyến trên, thuố.c nội càng “teo tóp” dần.
BS Loan đã từng chứng kiến nhiều phụ huynh khi lấy thuố.c điều dưỡng phát về bỏ lăn lóc trong hộc tủ và ra nhà thuố.c bên ngoài mua thuố.c ngoại có công thức tương đương. “Mặc dù các BS đã giải thích, các loại thuố.c nội đã được BV cho bệnh nhân dùng nhiều năm nay có hiệu quả và không nhất thiết dùng thuố.c ngoại, nhưng gia đình bệnh nhân vẫn không tin” – BS Thu Loan cho biết.
Ngay cả BS nhiều khi cũng không tự tin kê thuố.c nội cho bệnh nhân. BS Trần Nguyên Hà – Trưởng khoa Nội 4, BV Ung bướu TPHCM phân tích: Chúng tôi luôn muốn sử dụng thuố.c sản xuất trong nước điều trị cho bệnh nhân. Nhưng khi kê toa, BS nào cũng rất quan tâm đến nguyên liệu sản xuất thuố.c có nguồn từ đâu, thuố.c có đạt chuẩn GMP (thực hành tốt sản xuất thuố.c) hay không. Tôi biết có rất nhiều thuố.c sản xuất trong nước mới chỉ có giấy phép đầy đủ, giấy tờ hợp lệ, việc thử tương đương sinh học để chứng minh chất lượng thuố.c thì không có.
Trong khi đó, thuố.c ngoại có rất nhiều tài liệu nghiên cứu giúp BS có thêm thông tin, kinh nghiệm sử dụng thuố.c cho bệnh nhân. Còn thuố.c nội chỉ đơn thuần thông tin thuố.c này trị bệnh này, thuố.c kia trị bệnh kia nên chưa thuyết phục được BS kê toa. Chúng tôi cũng ít được biết thông tin về các Cty sản xuất thuố.c trong nước, nhà máy sản xuất thuố.c chất lượng thế nào, quy trình sản xuất ra sao, ứng dụng trên lâm sàng chưa…
Càng lên tuyến trên, thuố.c nội càng “teo tóp”
Tại Hà Nội, trong năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012, ở BV huyện Đông Anh, Quốc Oai, tỉ lệ thuố.c nội là 60%, cá biệt BV huyện Đan Phượng sử dụng 100% thuố.c nội. Tuy nhiên, tại BV Đống Đa – là BV hạng II của TP, thuố.c nội chỉ còn 40%. Vì sao trong cùng hệ thống y tế công lập, càng lên BV tuyến trên, chuyên khoa thì tỉ lệ thuố.c nội lại “tóp” đi?
Lãnh đạo một BV chuyên khoa thừa nhận rằng: Chất lượng thuố.c là yếu tố quan trọng trong việc điều trị cho bệnh nhân. Mặc dù hô hào sử dụng thuố.c nội, nhưng các nhà sản xuất trong nước chưa chứng minh được tương đương sinh học với thuố.c gốc là cùng một hoạt chất. Chẳng hạn, mỗi người chỉ có một đôi mắt, nếu dùng thuố.c cứ nói là rẻ mà không chứng minh được tương đương sinh học thì sử dụng vô cùng mạo hiểm.
Giả sử bệnh nhân có biến chứng, tai biến, mắt từ chỗ còn nhìn thấy mờ, sau khi phẫu thuật, dùng thuố.c không thấy gì nữa, lúc ấy bệnh nhân đâ.m đơn kiện thì BV phải là người chịu trách nhiệm. Bệnh nhân không cần biết nhà sản xuất thuố.c, chỉ biết BS đã kê đơn thuố.c gì cho họ mà thôi.
Video đang HOT
Sự chênh lệch tỉ lệ thuố.c nội trong các BV thể hiện rõ nét nhất qua dẫn chứng tại TPHCM. Theo Sở Y tế TPHCM, tổng giá trị tiề.n thuốc của các BV trên địa bàn TPHCM chiếm khoảng 20% tổng lượng của cả nước. So với tổng chi phí của BV, tiề.n thuốc chiếm một tỉ lệ rất lớn (từ 60-70%). PGS. TS Phạm Khánh Phong Lan – Phó Giám đốc Sở Y tế TPHCM – cho biết: “Những năm gần đây, Sở Y tế TP ghi nhận việc kê đơn điều trị đã có nhiều biến chuyển theo xu hướng tích cực, dần dần đã có sự tin tưởng đối với thuố.c trong nước với khoảng 50% tổng chi phí tiề.n thuốc là thuố.c sản xuất trong nước tỉ lệ này đang tăng dần từng năm. Đặc biệt, các BV quận, huyện, một số BV làm rất tốt, đạt 70-95%. Đối với các BV tuyến thành phố, các BV đa khoa, tỉ lệ này thấp hơn”.
Cụ thể, tại các BV chuyên khoa, tỉ lệ này thay đổi rõ rệt từ cao ở mức 30-40% cho đến thấp đặc biệt – chỉ khoảng 5% ở BV Mắt, BV Tim và BV Ung bướu. Con số trên cho thấy, BV tuyến dưới – do bị hạn chế danh mục thuố.c nhập khẩu – nên tỉ lệ sử dụng thuố.c nội cao, trong khi các BV tuyến trên – đặc biệt là BV chuyên khoa sâu – việc sử dụng các loại thuố.c đặc trị rất lớn. Đây lại là điểm yếu của ngành dược trong nước.
TS Trương Quốc Cường – Cục trưởng Cục Quản lý dược VN – cho biết: 70% tiề.n thuốc do người dân tự chi trả, vì thế, tác động tâm lý mua và sử dụng thuố.c của người dân là yếu tố quyết định để thuố.c trong nước phát triển. Trên thực tế, phần lớn người dân tự ý mua thuố.c tại các nhà thuố.c, dưới sự chỉ dẫn của dược sĩ, kể cả thuố.c kê đơn và không kê đơn. Vì thế, để thay đổi thói quen mua thuố.c của người dân, còn phải tác động đến đội ngũ dược sĩ của các nhà thuố.c này.
NG.H
Theo Võ Tuấn – Nguyễn Hằng (Người lao đông)
Vì sao bác sĩ chuộng kê thuố.c ngoại?
Đó là thực tế không chỉ diễn ra tại các phòng khám ngoài mà cả với hệ thống BV công lập, đặc biệt là BV tuyến trên. Bác sĩ giải thích, họ chọn thuố.c ngoại bởi họ chưa có nhiều thông tin về hiệu quả thuố.c nội.
Chuyên trị thuố.c ngoại!
Cầm quyển sổ khám bệnh dày đặc của cô con gái 18 tháng tuổ.i, chị Bùi Thị Lan (Cát Linh, Hà Nội) chỉ cho chúng tôi xem, cả thảy 20 lần khám bệnh chỉ duy nhất có một lần bác sĩ kê kháng sinh nội.
Sổ khám của con chị Lan chỉ toàn thuố.c ngoại. Ảnh: H.Hải
"Con mình vốn hay đau ốm, trung bình tháng ốm lần. Mình không đi khám riêng một thầy thuố.c nào mà khám ở Viện Nhi trung ương cũng có, Nhi Bạch Mai cũng có, bác sĩ tư cũng có... và hầu như lần nào bé cũng phải uống kháng sinh và chống viêm. Cả hai loại thuố.c này đều là thuố.c ngoại. Chỉ riêng một lần đến khám tại phòng khám của một bác sĩ viện Tai mũi họng, tôi rất bất ngờ khi bác sĩ kê đơn thuố.c kháng sinh nội cũng uống trong 5 ngày nhưng với chi phí đơn thuố.c rẻ bằng 1/3 so với các đơn thuố.c trước đó", chị Lan nói.
Chị cho biết thêm, khi bác sĩ kê thuố.c chị cũng không để ý là thuố.c nội hay thuố.c ngoại, chỉ bất ngờ vì giá rẻ, hộp 12 gói chỉ vỏn vẹn 56 ngàn đồng. Về nhà cho con uống chị mới phát hiện, cứ băn khoăn không định uống nhưng rồi tặc lưỡi, không ngờ con bé cũng hợp thuố.c, sau 6 ngày hoàn toàn khỏi bệnh. "Chỉ có điều, thuố.c hơi khó uống hơn vì nó không tan hoàn toàn như gói thuố.c ngoại, có mùi hắc hên nên uống lúc nào cũng lo con trớ".
Vì thế, sau một lần khám đó, chị đã "nhắm" vị bác sĩ này khám bệnh cho con giai 5 tuổ.i. "Thằng cu lớn rồi, dễ uống hơn, bác sĩ kê thuố.c nội rẻ tiề.n mà vẫn hiệu quả. Còn con gái nhỏ quá, uống rình trớ mình vẫn tạm thời cho con đi khám bác sĩ kê đơn ngoại, khi nào con lớn hơn, chắc chắn mình sẽ chọn vị bác sĩ kia", chị Lan nói.
Chị Thu Minh (Ô Chợ Dừa, Đống Đa) cho biết, chị có hai con nhỏ 18 tháng và 4 tuổ.i. Hai bé thường xuyên ốm đau, tháng nào cũng phải vào viện. Trước đây chị hay cho con khám phòng khám tư, nhưng giờ giá lên đắt đỏ nên con ốm, chị cho vào viện công lập nhà nước khám. "Giá khám rẻ hơn trăm ngàn so với phòng ngoài, nhưng đơn thuố.c thì vẫn vậy, khó dưới 500 ngàn. Tối qua, tôi cho con đi khám ở Bạch Mai vì sốt, bác sĩ nói bé bị viêm VA, kê thuố.c Augmentin 500 ngày 4 gói, riêng tiề.n kháng sinh đã hết gần 300 ngàn chưa kể thuố.c long đờm, hạ sốt cũng hoàn toàn dùng thuố.c của Pháp... Mình có mẹ ở quê bán thuố.c nên mới biết và tự đổi sang loại thuố.c nội cùng hoạt chất là với giá chưa bằng một nửa", chị Minh nói.
Tại diễn đàn Người Việt dùng thuố.c Việt mới đây, Bộ Y tế cũng phải thừa nhận, thuố.c nội hoàn toàn lép vế trước thuố.c ngoại. Thứ trưởng Bộ Y tế Cao Minh Quang cho biết, trong năm 2009, tổng giá trị thuố.c ngoại nhập (của bệnh viện công lập) chiếu 61,8% trong khi thuố.c nội là 38,2%. Đặc biệt tại các bệnh viện tuyến trung ương, thuố.c ngoại chiếm ưu thế với khoảng 88%, thuố.c nội chỉ chiếm con số rất khiêm tốn, trên dưới 12%.
Riêng bệnh viện tuyến huyện, thuố.c nội có phần nhỉnh hơn. Năm 2010, số tiề.n mua thuố.c ngoại tại các bệnh viện tuyến huyện là 38,5%, trong khi đó, thuố.c nội chiếm 61,5%.
Tuy nhiên thực tế số liệu thuố.c tại bệnh viện tuyến trung ương, tuyến huyện cho thấy điều ngược lại. Bệnh nhân không phải là người được lựa chọn thuố.c cho mình mà là do thầy thuố.c quyết định. Và thực tế cho thấy, ở bệnh viện tuyến trung ương, thuố.c ngoại chiếm ưu thế tuyệt đối. Trong khi tại các bệnh viện tuyến huyện, thuố.c nội lại vươn lên.
Theo ông Trần Viết Tiệp, Giám đốc BV Hữu Nghị Việt Nam - Thụy Điển (Uông Bí, Quảng Ninh), tại bệnh viện này, thuố.c ngoại chiếm khoảng 55 - 56%, còn lại là thuố.c nội. "Thuố.c nội dù được sử dụng nhiều, nhưng đại đa số là các thuố.c thông thường như kháng sinh đường uống, thuố.c bổ đường uống, dịch truyền... nên số tiề.n chi cho thuố.c nội không nhiều, khoảng 205 triệu trong năm 2011, trong khi đó thuố.c ngoại chiếm hơn một chút nhưng số tiề.n chi đến 457 triệu đồng.
Không quan tâm nội - ngoại mà quan tâm chất lượng
Nói về tình trạng lạm dụng kê đơn thuố.c ngoại như hiện nay, PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi BV Bạch Mai khẳng định: "Với tôi thuố.c nội, ngoại không quan trọng. Quan trọng là khi người bác sĩ kê đơn phải biết thuố.c đó nguồn gốc ở đâu, công ty, nhà máy đó đạt được tiêu chuẩn gì. Nếu thuố.c nội đạt đầy đủ tiêu chuẩn của GMP (thực hành sản xuất thuố.c tốt) thì thuố.c Việt cũng giống Mỹ, Anh, Pháp".
PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng khẳng định, chất lượng thuố.c mới là vấn đề quan tâm hàng đầu chứ không phải là nội - ngoại. Ảnh: H.Hải
Nhưng thực tế điều trị hiện nay, nhiều bác sĩ chọn kê đơn thuố.c ngoại, vì sao?
"Thuố.c generic giá thành rẻ hơn thuố.c sáng chế là đương nhiên. Bởi thuố.c generic là thuố.c sản xuất hàng loạt để nhiều người dân ít có điều kiện kinh tế tiếp cận được với thuố.c. Nếu chỉ để điều trị khỏi bệnh thì nó gần tương đương giống nhau bởi có cùng hoạt chất chính. Nhưng ngoài ra có nhiều yếu tố liên quan để người bác sĩ lựa chọn thuố.c cho bệnh nhân, đặc biệt với tr.ẻ e.m, người lớn tuổ.i bởi nó liên quan đến nhiều yếu tố từ chỉ tiêu hòa tan, mùi vị...Không thể so sánh chất lượng của thuố.c sáng chế và thuố.c generic.
Hơn nữa, không thể cứ nói thuố.c Việt tốt, chất lượng tương đương là tin được. Nói thuố.c mình tốt, các công ty Dược phải cho bác sĩ thông tin để thuyết phục bác sĩ thấy thuố.c đó là tốt. Chúng tôi muốn biết quy trình sản xuất thuố.c như thế này, nhà máy như thế nào... Bởi chúng tôi là những nhà khoa học, không thể chỉ tin vào lời nói thuố.c tôi sản xuất tốt lắm. Cũng là nhập nguyên liệu từ nước ngoài nhưng chúng tôi phải biết quá trình bảo quản nguyên liệu ra sao, công bố chỉ số kỹ thuật, độ hòa tan, lưu kho bãi ra làm sao...
Với những thuố.c nội cho tôi sự tin tưởng, tôi vẫn kê thuố.c và kê nhiều. Kể cả với thuố.c ngoại, tôi chỉ kê khi biết rõ chất lượng thuố.c", TS Dũng khẳng định.
Ví như loại thuố.c ho Hoastex của Việt Nam rất rẻ, chỉ chừng 15 - 20 ngàn mà lại rất hiệu quả. Bởi đây là loại thuố.c đã được nghiên cứu tại BV Nhi đồng 1, có bằng chứng khoa học rõ ràng. Trong khi đó, cũng với một loại thuố.c ho nhập ngoại giá cao gấp 3 - 4 lần nhưng tôi không kê. Bởi tôi biết chắc chắn về hiệu quả của loại thuố.c nội kia và giá thành thì rất rẻ. Vừa rẻ, vừa hiệu quả không dại gì bác sĩ chúng tôi không kê cho người bệnh.
Với kháng sinh thì lại phải tính, đặc biệt là kháng sinh đường uống. Nhà sản xuất phải công bố được độ hòa tan, tương đương sinh học... nếu không thầy thuố.c rất khó tin tưởng vào chất lượng.
Theo TS Dũng, chất lượng thuố.c là lý do chính để bác sĩ kê đơn thuố.c nội hay thuố.c ngoại chứ không phải vấn đề hoa hồng. Quan điểm dùng thuố.c của các nước khác trên thế giới cũng như Việt Nam là dùng thuố.c cho những nhóm nhân dân phù hợp với khả năng chi trả. Có nghĩa là thuố.c chính hãng cho người giàu, còn thuố.c generic dùng cho đại đa số người dân. Người thầy thuố.c phải lựa chọn thuố.c phù hợp với khả năng kinh tế của người bệnh.
Theo ông, người bác sĩ không dại gì để các công ty Dược lái mình bằng mấy đồng hoa hồng bởi rất nguy hiểm ngay đến chính họ chưa kể đến bệnh nhân. Ví như khám xong, thấy bệnh nhân thuố.c A là tốt nhưng vì hoa hồng lại kê thuố.c B mà chưa biết nó có tác dụng tốt không. Chữa tỉ lệ khỏi bệnh thấp hơn nhiều, không khỏi, bác sĩ mất uy tín. Đán.h đổi cho tí hoa hồng làm hại chính bản thân mình.
Về việc cung cấp thông tin thuố.c, ông Dũng cho rằng các Công ty Dược chưa làm được nhiều. Tôi luôn mở cửa cho các công ty Dược tiếp cận với chúng tôi để cung cấp thông tin về thuố.c của họ hoàn toàn miễn phí.
Vấn đề TS Dũng cho là bất cập nhất không phải là kê đơn thuố.c nội - thuố.c ngoại, mà đó là tình trạng Việt Nam vẫn cho nhập những thuố.c gọi là ngoại, nhưng là ngoại Hàn quốc, Ấn Độ... "Thực ra đó vẫn là thuố.c generic giống hệt như Việt Nam làm, mua nhiên liệu và đóng gói thành thuố.c chứ không phải thuố.c sáng chế. Nhưng nhiều người đang bị nhập nhèm bởi loại thuố.c này, tưởng ngoại là tốt trong khi chất lượng thì như Việt Nam bởi đều là thuố.c generic", ông Dũng nói.
TS Dũng dẫn chứng loại thuố.c tiêm Cefotaxime 1g Việt Nam sản xuất rất nhiều, nhập nguyên liệu, đóng chai và có tác dụng tốt. Nhưng tại Việt Nam cũng có vài chục mặt hàng "ngoại" cùng dòng thuố.c này từ Ấn Độ, Hàn Quốc... trong khi nó là hàng giống mình.
"Thuố.c generic giống mình sản xuất, nhập lại đắt hơn nhiều, tại sao dùng thuố.c đó? Vì thế trong Hội đồng thuố.c BV Bạch Mai, cùng nhóm này chỉ có khoảng 3 - 4 loại thuố.c khác nhau để tránh tình trạng độc quyền, còn không cho phép dùng bừa bãi", TS Dũng nói.
Còn theo Thứ trưởng Bộ trưởngY tế Cao Minh Quang cho rằng, để thuố.c nội đến được với người bệnh thì bác sĩ kê đơn có vai trò quan trọng. "Bác sĩ hoàn toàn có thể lựa chọn thuố.c có tên generic tương đương sinh học với thuố.c gốc mà vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị".
Tuy nhiên ông cũng thẳng thắn cho rằng, muốn bác sĩ kê đơn thuố.c nội thì chính nhà sản xuất, kinh doanh phải chứng minh thuố.c của mình tương đương điều trị, tương đương tác dụng dược lý so với thuố.c cùng loại nhập khẩu. Không thể có chuyện thuố.c nhập khẩu uống 1g, thuố.c trong nước uống đến 1,5 - 2g mới có tác dụng thì làm sao nói tương đương được. Điều đó không thuyết phục được bác sĩ kê đơn", ông Quang nói.
Hồng Hải
Theo Dân trí
Thuố.c nội b.ị ch.ê ở bệnh viện tuyến trên! Mặc dù thuố.c nội có thể đáp ứmg hơn 70% hoạt chất thuộc danh mục thuố.c thiết yếu nhưng càng ở bệnh viện tuyến trên, thuố.c nội càng lép vế so với thuố.c ngoại (chiếm đến gần 90% số tiề.n mua thuố.c của bệnh viện). Người dân tham quan gian hàng thuố.c Việt tại hội nghị sáng nay. Ảnh: H.Hải Sáng 20/8, tại...