Thuốc quý từ quả chanh
Chanh là một loại quả phổ biến và có nhiều loại như chanh giấy, chanh đào… Hầu hết bộ phận của quả chanh đều là những vị thuốc tốt trong y học cổ truyền.
Vỏ quả: chiếm 13 – 24% trọng lượng của quả, có vị đắng, cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng kích thích tiêu hóa, gây trung tiện chữa đầy bụng, nôn mửa, ho nhiều đờm.
Liều dùng hằng ngày: 5-10 vỏ phơi khô dưới dạng nước sắc. Để chữa sốt cao, co giật ở trẻ em, lấy vỏ quả chanh giã nhỏ, gói vào vải sạch, xoa miết khắp người như kiểu đánh gió, kết hợp cho uống nhiều nước dịch chanh. Vỏ chanh còn là nguyên liệu để sản xuất tinh dầu.
Dịch chanh:
chiếm 23 – 95% trọng lượng quả. Dịch chanh 5 – 10 giọt đánh nhuyễn với lòng trắng trứng gà 1 quả, dùng bôi lên mặt để làm mất nếp nhăn. Dịch trộn với nước ép quả dâu tây, dùng chải tóc và bôi lên da đầu, sau gội đầu để tẩy chất nhờn và làm trơn tóc.
Về mặt y học, dịch chanh có vị chua, tính bình, có tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, chống viêm, cầm máu. Ngậm múi chanh với ít muối, nuốt nước dần dần để chữa viêm họng, ho nhiều, háo khát. Dịch chanh (nửa thìa cà phê) hòa với bột long não 1g và rễ bạch hoa xà giã nhỏ 10g, bôi chữa hắc lào, lở chốc.
Hạt chanh: chiếm 5-7% trọng lượng quả, có thể dùng trong những trường hợp sau:
Chữa ho lâu ngày: hạt chanh 10 gr, hạt quất 10 gr, lá thạch xương bồ 10 gr, một mật gà đen. Tất cả dùng tươi, rửa sạch, giã nhỏ, thêm đường, hấp cơm, uống làm 2 – 3 lần trong ngày.
Video đang HOT
Chữa viêm cuống phổi, mất tiếng, nhất là ở trẻ nhỏ: hạt chanh 10 gr, hoa đu đủ đực 15g, lá hẹ 15 gr, nước 200ml. Nghiền nát các dược liệu với nước, thêm mật ong hoặc đường kính, uống 2 – 3 lần trong ngày.
Theo DS. Bảo Hoa
Báo Đất Việt
Rau dại cho thuốc quý
Ít ai biết rằng, rất nhiều loại rau mọc hoang dại khắp nơi ở ven suối, bờ ao, đồng ruộng lại là những vị thuốc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người để bảo vệ sức khỏe.
Rau càng cua
Thuộc họ hồ tiêu, cỏ mọng nước, sống hàng năm, mọc nhiều ở các chân tường ẩm, vùng đất ruộng ẩm ướt. Ở nước ta chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu về rau càng cua, nhưng theo kết quả nghiên cứu của A.C.Bojo và cộng sự (1994), hoạt chất chiết từ rau càng cua có tác dụng chống viêm, giảm đau nhức, kháng khuẩn rộng trên các chủng S. aureus, B. subtilis, P. Aeriginosa và E. Coli, dịch chiết trong clorofoc có tác dụng kháng nấm T. Mentagrophytes.
Ở nhiều nước trên thế giới người ta dùng toàn cây rau càng cua làm thuốc chữa đau bụng, áp xe, mụn, bỏng nước, gout, rối loạn chức năng thận, thấp khớp. Người dân da đỏ ở Bolivia và dân Brazil dùng toàn cây cả rễ chữa các chứng xuất huyết, sốt cao, làm lành vết thương, chữa ho, hạ cholesterol huyết và trị bệnh tiểu nhiều protein. Mỗi ngày dùng tươi từ 100-200g hoặc sắc lấy dịch chiết cô đặc chia nhiều lần uống trong ngày.
Rau dền canh
Còn gọi là rau dền tía. Ngoài rau dền canh còn có nhiều loài khác như rau dền cơm, rau dền gai. Mọc hoang hoặc được trồng nhiều để làm rau ăn, luộc, xào hoặc nấu canh.
Trong lá rau dền chứa hàm lượng vitamin A rất cao, ngoài ra còn có vitamin B, C, PP, nhiều protit đặc biệt là Lysin với hàm lượng cao hơn cả ngô, lúa mì và đậu tương. Rau dền có vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu tiện, sát trùng, giải độc. Mỗi ngày 200-500g rau dền luộc ăn và uống cả nước hoặc đem nấu canh ăn giúp thông tiểu, nhuận trường, chữa táo bón, kiết lỵ, các trường hợp dị ứng, mẩn ngứa hoặc do côn trùng đốt. Dùng luôn cả bông và hạt. Rau dền có tác dụng trừ phong nhiệt chữa mắt mờ, mắt có màng mộng (phối hợp thêm hạt thảo quyết minh cùng lượng, sắc uống).
Rau dừa nước
Còn gọi là rau dừa, mọc hoang nhiều ở các ruộng nước, ao đầm, mương rạch, thân mềm xốp có nhiều phao xốp màu trắng giúp cho thân cây nổi trên mặt nước.
Thành phần rau dừa nước chứa nhiều protid, gluxit, chất xơ, khoáng tố như canxi, photpho, sắt, nhiều carotene, vitamin C, flavonoit và tanin. Nhờ vậy rau dừa nước có giá trị dinh dưỡng khá cao. Dùng làm rau ghém ăn mắm kho hoặc luộc, nấu canh.
Từ lâu người ta dùng rau dừa để chữa bệnh đường tiết niệu như viêm bàng quang, viêm cầu thận cấp, tiểu buốt, tiểu gắt, tiểu ra máu và đặc biệt là chứng tiểu ra dưỡng trấp (mỗi ngày dùng 30-40g khô, phối hợp thêm rễ cây đa 20g, tỳ giải 15g, sắc lấy nước uống trong 5-7 ngày). Theo y học cổ truyền, rau dừa có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, lương huyết, còn dùng chữa cảm sốt, đau bụng, dùng ngoài giã đắp còn trị rắn cắn, mụn nhọt, sưng lở.
Rau đắng đất
Loại này mọc hoang trên các vùng đất khô cạnh bãi sông, ven biển, nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Có thể thu hái quanh năm, nên hái lúc cây chưa ra hoa, rửa sạch, ăn sống hoặc làm rau ghém ăn với món cháo cá lóc.
Theo y học cổ truyền, rau đắng đất có vị đắng, tính mát, dùng trị kinh phong, nhuận gan, thông tiểu. Được dùng để chữa các bệnh về gan như viêm gan vàng da, nổi mề đay, sốt nóng trong người (thêm Dây cứt quạ đồng lượng, sắc uống). Mỗi ngày 50-100g nấu canh ăn hoặc sắc lấy nước uống.
Rau sam
Cũng là rau mọc hoang trong các bãi cỏ, công viên, vườn, sân, bờ ruộng. Rau sam có vị chua hơi đắng, tính mát, chứa nhiều glycosit, saponin, chất nhày, axit hữu cơ, muối kali và nhiều vitamin như A, B1, B2, C và PP.
Rau sam có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lọc máu, nhuận trường, tẩy giun, an thần nhẹ. Được dùng để trị viêm ruột cấp, lỵ, ký sinh trùng đường ruột như giun đũa, giun kim (phối hợp thêm cỏ sữa), đi cầu ra máu (thêm cỏ mực, rau má), ho gà, ho lâu ngày, niệu đạo xuất huyết như tiểu ra máu, sỏi niệu. Mỗi ngày 15-30g lá khô hoặc 50-100g lá tươi sắc lấy nước uống. Có thể ăn như rau sống, xào chín hoặc làm rau ghém chấm mắm kho ăn cho mát. Dùng ngoài giã đắp chữa mụn nhọt, đinh râu.
DS Lê Kim Phụng, Đại học Y dược TP.HCM
Song Linh (trích nguồn: Website Trung tâm Truyền thông - Giáo dục Sức khỏe TP.HCM)
PNO