Thuốc điều trị ung thư buồng trứng
Ung thư buồng trứng là một trong những bệnh ung thư phụ khoa phổ biến, phát hiện sớm thường có tỷ lệ chữa khỏi cao…
1. Phương pháp điều trị ung thư buồng trứng
Các bệnh ung thư hệ thống sinh sản nữ phổ biến bao gồm ung thư cổ tử cung, ung thư nội mạc tử cung và ung thư buồng trứng.
Ung thư buồng trứng thường xảy ra nhất ở phụ nữ sau mãn kinh hoặc phụ nữ ở độ tuổi 55-75. Giai đoạn đầu không có triệu chứng rõ ràng và thiếu các công cụ sàng lọc hiệu quả. Vì vậy, khi phát hiện ra hầu hết bệnh nhân ung thư buồng trứng đều đã ở giai đoạn nặng và tỷ lệ tử vong tương đối cao. Có thể nói đây là “kẻ giết người thầm lặng” đối với phụ nữ.
Việc điều trị ung thư buồng trứng đã có nhiều tiến bộ trong những năm gần đây, bao bồm hóa trị và sự phát triển của các liệu pháp nhắm mục tiêu, xạ trị, phẫu thuật… Việc điều trị sẽ phụ thuộc vào giai đoạn ung thư, tiền sử bệnh và mong muốn điều trị của người bệnh.
Ung thư buồng trứng là “kẻ giết người thầm lặng” đối với phụ nữ.
- Xạ trị là việc sử dụng bức xạ ion hóa để điều trị các bệnh khối u ác tính, khiến tế bào ung thư mất khả năng sửa chữa, trong khi các tế bào bình thường có thể sửa chữa trở lại. Các tế bào ung thư khác nhau có độ nhạy cảm khác nhau với bức xạ. Các tế bào có khả năng sinh sản cao, thời gian nguyên phân dài và các tế bào không biệt hóa có tác dụng lớn hơn với bức xạ. Độ nhạy của bức xạ cũng liên quan đến quá trình oxy hóa của mô.
- Hóa trị đóng vai trò quan trọng trong hiệu quả điều trị của bệnh nhân ung thư buồng trứng, các phương pháp hóa trị không ngừng được phát triển và nghiên cứu.
Điều trị ung thư sử dụng hóa trị để giảm kích thước khối u và sau đó phẫu thuật để việc điều trị ung thư có thể đạt được kết quả khả quan hơn. Ngoại trừ bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn Ia và Ib có tế bào ung thư biệt hóa rõ, tất cả các bệnh nhân còn lại đều phải hóa trị. Đối với những bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn cuối, hóa trị là một trong những phương pháp điều trị cần thiết.
Trước đây, hóa trị được bắt đầu khoảng 2 đến 4 tuần sau khi phẫu thuật và sau đó cứ 3 đến 4 tuần một lần, thực hiện khoảng 4 đến 6 lần. Nhưng hiện nay người ta chú trọng hơn đến việc sử dụng hóa trị liệu sớm (4 đến 5 ngày sau phẫu thuật) và tỷ lệ sống sót của bệnh nhân có thể tăng lên.
2. Các thuốc hóa trị điều trị ung thư buồng trứng
2.1 Các loại thuốc thường được sử dụng điều trị ung thư buồng trứng
- Cisplatin hoặc carboplatin: Cisplatin và carboplatin đại diện cho một số loại thuốc gây độc tế bào có hoạt tính và là trụ cột của hầu hết các chế độ hóa trị. Các chất tương tự cisplatin và carboplatin là các tác nhân hóa trị liệu được sử dụng rộng rãi trong ung thư.
Video đang HOT
Cả hai loại thuốc này đều có tác dụng lâm sàng rộng rãi trong nhiều bệnh ác tính, bao gồm ung thư buồng trứng trong số các bệnh ung thư phụ khoa. Carboplatin là lựa chọn thay thế trong những trường hợp chống chỉ định cisplatin, nhưng không phải trong mọi trường hợp.
Gemcitabine: Gemcitabine là một loại thuốc hóa trị chủ yếu nhắm vào ung thư phổi hoặc ung thư tuyến tụy tiến triển cục bộ hoặc di căn. Ngoài ra, gemcitabine còn có tác dụng tốt đối với ung thư bàng quang, bệnh ung thư vú, ung thư buồng trứng
2.2 Các thuốc mới điều trị ung thư buồng trứng
Do sự tiến bộ của công nghệ sinh học, nhiều loại thuốc mới đã ra đời. Đặc điểm của các loại thuốc này là:
Mang lại tia hy vọng cho những bệnh ung thư hiện chưa có phương pháp điều trị.
Ít tác dụng phụ hơn.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các loại thuốc mới này chỉ có thể kiểm soát bệnh hoặc kéo dài sự sống cho người bệnh. Các thuốc này bao gồm:
- Thuốc điều trị trúng đích ung thư buồng trứng
Bevacizumab: Thuộc nhóm thuốc gọi là thuốc ức chế sự hình thành mạch, bevacizumab đã được chứng minh là có tác dụng thu nhỏ hoặc làm chậm sự phát triển của ung thư biểu mô buồng trứng giai đoạn muộn, khi sử dụng kết hợp với hóa trị liệu, cho kết quả tốt trong việc thu nhỏ các tổn thương ung thư buồng trứng (hoặc ngăn chặn sự phát triển của chúng).
Chất ức chế PARP: Olaparib, rucaparib và niraparib là những loại thuốc được gọi là chất ức chế PARP (poly(ADP)-ribose polymerase).
Olaparib và rucaparib được sử dụng để điều trị ung thư buồng trứng tiến triển, thường là sau khi thử hóa trị. Những loại thuốc này đã được chứng minh là giúp thu nhỏ hoặc làm chậm sự phát triển của một số bệnh ung thư buồng trứng giai đoạn muộn.
Thuốc nhắm vào tế bào bị biến đổi gen NTRK: Một số lượng rất nhỏ bệnh ung thư buồng trứng có những thay đổi ở một trong các gen NTRK và các tế bào có những thay đổi di truyền này có thể dẫn đến sự phát triển tế bào bất thường và ung thư. Larotrectinib và entrectinib là các loại thuốc nhắm mục tiêu ngăn chặn protein do gen NTRK bất thường tạo ra.
- Thuốc điều trị nội tiết tố ung thư buồng trứng
Chất chủ vận hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH): Chất chủ vận LHRH (đôi khi được gọi là chất chủ vận GnRH) ngăn chặn việc sản xuất estrogen của buồng trứng. Những loại thuốc này được sử dụng để làm giảm nồng độ estrogen ở bệnh nhân tiền mãn kinh bị ung thư buồng trứng.
Tamoxifen: Tamoxifen là một loại thuốc thường được sử dụng để điều trị ung thư vú, nhưng cũng được sử dụng để điều trị các khối u mô đệm buồng trứng và hiếm khi được sử dụng để điều trị ung thư biểu mô buồng trứng tiến triển.
Mục đích của việc điều trị bằng tamoxifen là ngăn chặn bất kỳ loại estrogen nào lưu hành trong cơ thể bệnh nhân ung thư buồng trứng kích thích sự phát triển của các tế bào ung thư buồng trứng.
Chất ức chế Aromatase: Thuốc ức chế Aromatase là thuốc ngăn chặn một loại enzyme gọi là Aromatase và chỉ giúp làm giảm nồng độ estrogen ở phụ nữ sau mãn kinh bị ung thư buồng trứng. Những loại thuốc này chủ yếu được sử dụng để điều trị ung thư vú, nhưng chúng cũng có thể được sử dụng để điều trị một số khối u mô đệm buồng trứng và mức độ thấp.
Việc điều trị ung thư buồng trứng sẽ phụ thuộc vào giai đoạn ung thư, tiền sử bệnh và mong muốn điều trị của người bệnh.
3. Tác dụng phụ của thuốc hóa trị
Khi điều trị hóa trị, một hoặc nhiều tác dụng phụ có thể xảy ra cùng lúc. Điều này phụ thuộc hoàn toàn vào loại thuốc được sử dụng và phản ứng của từng cá nhân. Các tác dụng phụ thường gặp nhất là buồn nôn, nôn, tiêu chảy, rụng tóc, sốt và mệt mỏi nhưng hầu hết các tác dụng phụ sẽ biến mất khi ngừng điều trị.
Một số tác dụng phụ của hóa trị như mệt mỏi và rụng tóc có thể xuất hiện vài tuần trước khi điều trị và tiếp tục cho đến khi kết thúc điều trị. Các tác dụng phụ khác như buồn nôn, nôn có thể xảy ra trong vòng vài giờ sau khi điều trị, nhưng hầu hết các tác dụng phụ sẽ dần biến mất khi ngừng hóa trị.
Mặc dù tác dụng phụ rất khó chịu nhưng thuốc chống ung thư có tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư vào thời điểm này.
4. Những lưu ý trong quá trình điều trị
Đối với người bệnh đang điều trị ung thư buồng trứng, phòng chống nhiễm trùng và chế độ dinh dưỡng là hai việc quan trọng:
- Phòng ngừa nhiễm trùng: Nhiễm trùng sẽ ảnh hưởng lớn đến bệnh nhân đang hóa trị và làm giảm hiệu quả điều trị. Nếu việc điều trị gây ra tác dụng phụ (như loét miệng) và gây nhiễm trùng thì nhiễm trùng phải được chữa khỏi trước, sau đó mới có thể tiếp tục hóa trị.
- Hấp thụ dinh dưỡng: Bất kể bệnh nhân được hóa trị hay xạ trị, các mô bình thường và mô khối u sẽ bị tổn thương do điều trị. Tuy nhiên, do các mô bình thường có khả năng sửa chữa mạnh mẽ nên sau quá trình điều trị, các mô bình thường vẫn có thể duy trì chức năng bình thường trong khi khối u. Trong quá trình điều trị, khi các mô bình thường được sửa chữa, cần phải bổ sung các chất cơ bản cần thiết cho sự hình thành tế bào như chất béo, protein và các chất dinh dưỡng khác nhau. Vì vậy, khi người bệnh trải qua hóa trị, xạ trị phải tiêu thụ nhiều calo hơn bình thường, đặc biệt là những thực phẩm giàu protein.
Làm chủ kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
Với vai trò là bệnh viện đầu ngành của tỉnh, những năm qua, Bệnh viện Đa khoa tỉnh luôn chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, chuyên sâu nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe Nhân dân ngày càng tốt hơn, trở thành địa chỉ khám, chữa bệnh (KCB) uy tín.
Sử dụng máy chụp cộng hưởng từ trong chẩn đoán bệnh ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh - Ảnh: T.L
Theo tìm hiểu, chúng tôi được biết thời gian qua, nhờ bệnh viện đầu tư trang thiết bị y tế chuyên sâu nên rất nhiều trường hợp bệnh nhân khỏi chuyển lên tuyến trên điều trị, trong đó có bệnh nhân Trương Thị L. ở Khu phố 7, Phường 3, TP. Đông Hà bị ung thư nội mạc tử cung.
Tại bệnh viện, bệnh nhân được phẫu thuật cắt tử cung 2 phần phụ kèm nạo vét hạch chậu 2 bên. Sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được hóa xạ trị, sau đó tiến hành hóa trị thêm 4 chu kỳ tại bệnh viện đúng phác đồ. Với việc bệnh viện mới đưa hệ thống xạ trị vào hoạt động, những bệnh nhân như chị L. không cần phải chuyển tuyến trên để hoàn thành điều trị bệnh. Đây là một trong những trường hợp điển hình mà bệnh nhân được hưởng lợi khi Bệnh viện Đa khoa tỉnh triển khai các ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị bệnh.
Giám đốc Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phan Xuân Nam cho biết, trong những năm gần đây, bệnh viện đã được đầu tư nhiều trang thiết bị y tế mới, đồng bộ và hiện đại, đảm bảo cơ bản yêu cầu KCB.
Nổi bật là khu chẩn đoán kỹ thuật cao với hệ thống máy móc thế hệ mới như hệ thống máy gia tốc tuyến tính đa mức năng lượng với ống chuẩn trực MLC 160 lá; hệ thống chụp cắt lớp vi tính mô phỏng 32 lát cắt; hệ thống CT Scaner 80 lát cắt phần mềm nhân đôi lát cắt; hệ thống chụp cắt lớp vi tính 64 lát cắt/vòng; hệ thống chụp cộng hưởng từ 1.5T; hệ thống chụp mạch số hóa xóa nền 1 bình diện; dao mổ plasma; máy tán sỏi laser; máy đốt u bằng sóng cao tần; máy lọc máu liên tục; hệ thống trao đổi oxy ngoài cơ thể ECMO, máy cắt lạnh...
Với nền tảng trang thiết bị hiện đại, bệnh viện đã triển khai và làm chủ được nhiều kỹ thuật theo phân tuyến, trong đó có cả những kỹ thuật cao, hiện đại, chuyên sâu của tuyến trung ương trên hầu hết các chuyên khoa và tạo được thương hiệu, uy tín đối với các tầng lớp nhân dân.
Trong năm 2023, bệnh viện đã triển khai nhiều kỹ thuật mới đối với các hệ nội, ngoại và cận lâm sàng. Cụ thể, triển khai thêm phòng khám tim mạch; kỹ thuật laser nội mạch; holter huyết áp; đặt máy tái đồng bộ ở tim; điều trị suy giãn tĩnh mạch bằng laser. Chẩn đoán ung thư đường tiêu hóa sớm bằng nội soi; kỹ thuật tiêm nội khớp để điều trị các bệnh thoái hóa về khớp.
Triển khai thêm các phương thức thở máy xâm nhập. Kỹ thuật lọc máu liên tục: thay huyết tương, lọc gan. Kỹ thuật phẫu thuật TOT trong điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở phụ nữ lớn tuổi; phương pháp Soave điều trị phình đại tràng bẩm sinh. Phẫu thuật cắt gan điều trị ung thư đường mật; phẫu thuật điều trị bệnh lý lõm ngực bẩm sinh; khai trương, đưa vào hoạt động hệ thống xạ trị gia tốc tuyến tính.
Triển khai dịch vụ đặt sonde JJ số hóa xóa nền; kỹ thuật chụp CLVT mạch máu trong đột quỵ. Nội soi can thiệp điều trị ung thư sớm qua đường tự nhiên... Cùng với đó, bệnh viện đã liên tục cử các ê kíp y, bác sĩ, nhân viên y tế đi đào tạo, nâng cao năng lực chuyên môn, chuyển giao kỹ thuật mới, chuyên sâu tại các bệnh viện tuyến trên...
Theo ông Phan Xuân Nam, năm qua bệnh viện đã có nhiều thành công trong công tác KCB. Nhờ áp dụng, làm chủ nhiều kỹ thuật cao, kỹ thuật chuyên sâu bệnh viện đã cứu sống nhiều bệnh nhân nặng, nguy kịch, giúp người dân được thụ hưởng những dịch vụ y tế chất lượng cao ngay tại địa phương.
Thực hiện phối hợp báo động đỏ và phẫu thuật cấp cứu, cứu sống người bệnh bằng phương pháp mở ngực khâu thất phải cầm máu, kết hợp xương ức bằng nẹp vis, cố định các mảng sườn di động bằng chỉ thép ở người bệnh bị đa chấn thương. Điều trị thành công cho người bệnh bị tăng sinh lành tính tiền liệt tuyến bằng phương pháp nút mạch; xử trí cấp cứu người bệnh bị tắc động mạch trung tâm võng mạc mắt trái; cấp cứu kịp thời cứu sống người bệnh sốc phản vệ độ 3 do dùng kháng sinh; phẫu thuật cắt xương đốt sống, mở ống sống cứu sống người bệnh bị mũi tên bắn cá xuyên thủng vào tủy ở đốt sống phía ngực, rò dịch não tủy...
Để nâng cao chất lượng KCB, tạo niềm tin và sự hài lòng của người bệnh, ban giám đốc bệnh viện xác định cần phải đổi mới tư duy, phương thức cung cấp dịch vụ; nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc y tế, đặc biệt là thay đổi nhận thức, thái độ, hướng tới phong cách phục vụ chuyên nghiệp của cán bộ y tế trong thực hiện sứ mệnh chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy trình chuyên môn trên cơ sở hướng dẫn quy trình kỹ thuật các chuyên khoa do Bộ Y tế ban hành. Tiếp tục hoàn thiện kỹ thuật chuyên môn đã có, phát huy hiệu quả các kỹ thuật cao đã triển khai để phục vụ người bệnh. Ưu tiên đầu tư phát triển các kỹ thuật cao, các lĩnh vực phát triển bệnh viện vệ tinh về tim mạch, chấn thương, ung bướu. Tranh thủ sự giúp đỡ của Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y Hà Nội và các bệnh viện chuyên khoa trung ương thông qua Đề án 1816 trong chuyển giao kỹ thuật tại bệnh viện.
Liệu pháp mRNA đem lại tiềm năng điều trị ung thư buồng trứng Trang Interesting Engineering cho biết giới khoa học đang được nhiều đột phá ở lĩnh vực nghiên cứu về ung thư, một trong số đó là sử dụng liệu pháp RNA thông tin (mRNA) cho điều trị. Một nhóm nghiên cứu Đại học Tel Aviv (Israel) tìm ra cách tiêu diệt có chọn lọc tế bào ung thư trong cơ thể người bằng...