Thực thi Luật Tài nguyên nước: Bắt đầu từ thực địa, không phải trên giấy tờ
Báo cáo tại cuộc họp về nhiệm vụ trọng tâm năm 2020 và những năm tiếp theo, ông Hoàng Văn Bảy – Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước ( Bộ Tài nguyên và Môi trường) – đề xuất các nội dung sau: Hoàn thành việc đánh giá, tổng kết việc thi hành Luật Tài nguyên nước năm 2012, đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung luật, dự kiến hoàn thành vào năm 2020.
Nhiệm vụ nặng nề
Theo đó, trên cơ sở đánh giá, tổng kết việc thi hành luật, Cục Quản lý tài nguyên nước sẽ trình Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) xem xét chủ trương sửa đổi luật và đề nghị đưa Luật Tài nguyên nước sửa đổi, bổ sung vào chương trình xây dựng luật của Quốc hội khóa XV, từ năm 2021 đến năm 2025; tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung Nghị định 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và Nghị định 201/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước. Bên cạnh đó, đẩy mạnh công tác quy hoạch tài nguyên nước, lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; đẩy mạnh hoạt động lập quy hoạch tổng hợp các lưu vực sông liên tỉnh, nguồn nước liên tỉnh. Sớm hoàn thiện và đưa vào hệ thống giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước bằng công nghệ tự động, trực tuyến phục vụ giám sát việc tuân thủ giấy phép tài nguyên nước và công tác chỉ đạo điều hành…
Để bảo vệ tốt tài nguyên nước cần đi từ tình hình thực tế, thực địa chứ không thể chỉ bàn trên giấy. Ảnh: I.T
Triển khai thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Để triển khai những nhiệm vụ này, Cục Quản lý tài nguyên nước đề xuất Bộ TNMT cho phép xây dựng đề án “Tăng cường quản trị tài nguyên nước”; cân đối, bổ sung kinh phí cho một số dự án ưu tiên thực hiện để đảm bảo tiến độ như Dự án “Xây dựng hệ thống theo dõi và quản lý diễn biến nguồn nước mặt, nước dưới đất và hoạt động khai thác, sử dụng nước, xả thải vào nguồn nước phục vụ giám sát việc tuân thủ giấy phép tài nguyên nước và công tác chỉ đạo điều hành”; Dự án “Điều tra, đánh giá việc khai thác, sử dụng nước dưới đất, tác động đến sụt lún bề mặt đất khu vực TP.Hà Nội, TP.HCM, Đồng bằng sông Cửu Long, định hướng quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước dưới đất”.
Phải bắt đầu từ thực tiễn
Cơ bản đồng ý với đề xuất của Cục Quản lý tài nguyên nước, Thứ trưởng Bộ TNMT Lê Công Thành chỉ đạo Cục Quản lý tài nguyên nước tập trung vào đánh giá, tổng kết thực hiện Luật Tài nguyên nước. “Nội dung này phải bắt đầu từ thực tiễn. Phải bao trùm trên hiện trường, thực địa chứ không chỉ trên giấy” – Thứ trưởng Thành nói.
Video đang HOT
Thứ trưởng Thành cũng lưu ý những khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB), đó là Việt Nam cần cải cách thể chế trong quản lý tài nguyên nước, tổ chức bộ máy xây dựng đề án về thành lập tổ chức lưu vực sông. Theo đó, trong năm 2020 và những năm tiếp theo, cần hướng tới thành lập Trung tâm tích hợp dữ liệu vùng, trước mắt là Trung tâm tích hợp dữ liệu Đồng bằng sông Cửu Long, tiếp theo là các lưu vực khác.
“Đây là việc rất quan trọng. Đồng thời có thể khuyến khích xã hội hóa trong quản lý tài nguyên nước; đưa ra những kế hoạch phù hợp nhất, tập trung nguồn lực của các đơn vị tài nguyên nước để giải quyết hệ thống thông tin chung về quản lý tài nguyên nước” – Thứ trưởng Thành nhấn mạnh.
Về vấn đề sụt lún đất, Thứ trưởng Bộ TNMT Lê Công Thành chỉ đạo trước mắt tập trung vào nghiên cứu sụt lún đất ở Đồng bằng sông Cửu Long, bằng những nội dung đưa ra hình ảnh đầy đủ hơn theo diện rộng, trong đó sử dụng công nghệ viễn thám, ảnh vệ tinh. Đặt câu hỏi hiện nay chúng ta quản lý tài nguyên nước theo mô hình như thế nào? Nước ngầm, nước mặt, lưu vực sông? Thứ trưởng Thành cho rằng, việc quan trọng trong năm 2020 và các năm tiếp theo là phải xây dựng được mô hình quản lý lưu vực sông.
Theo Danviet
Cấp bách giải quyết sạt lở, sụt lún đất và xâm nhập mặn vùng ĐBSCL
Ông Hoàng Văn Bẩy cho biết cần điều tra, khoanh định các khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất, trước hết tập trung khoanh định các khu vực cần hạn chế do khai thác quá mức.
Ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại diễn đàn. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Giải quyết hiệu quả tình trạng sạt lở ven sông, biển, sụt lún đất và xâm nhập mặn là nội dung chính của Diễn đàn chuyên đề Quản lý tài nguyên nước, lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Diễn đàn do Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 18/6.
Phát biểu tại diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết Đồng bằng sông Cửu Long có vai trò vô cùng quan trọng trong đảm bảo an ninh lương thực và phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên Đồng bằng sông Cửu Long đang chịu tác động của hoạt động khai thác, sử dụng nước gia tăng từ các quốc gia thượng nguồn sông Mekong.
Khu vực đồng bằng đang phải đối mặt với áp lực tăng dân số và phát triển kinh tế dẫn đến nhu cầu sử dụng nước tăng, nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt; phát triển cơ sở hạ tầng, giao thông chưa gắn kết được với nhiệm vụ bảo vệ nguồn nước và sụt lún đất. Tác động của biến đổi khí hậu gây ra những hệ lụy cho đồng bằng những năm gần đây như diễn biến lũ bất thường; hạn hán gia tăng; mặn xâm nhập sâu vào cả nguồn nước mặt và nước ngầm; sụt lún đất diễn ra trên diện rộng; sạt lở bờ sông, bờ biển xảy ra trên hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, năm 2017 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, nêu rõ các quan điểm, định hướng phát triển tài nguyên nước, ứng phó thiên tai cho Đồng bằng sông Cửu Long. Nghị quyết 120 đã chuyển đổi căn bản quan điểm về phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long, lấy tài nguyên nước làm cốt lõi và phải thích ứng với diễn biến tài nguyên nước, thiên tai, tôn trọng quy luật tự nhiên.
Trên cơ sở các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết 120 và kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, các tỉnh, thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long đã ban hành kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết; trong đó tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để quản lý tài nguyên nước hiệu quả, ứng phó với lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, sụt lún, sạt lở đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó kiểm soát và tập trung nguồn lực để triển khai các nhiệm vụ, giải pháp đề ra.
Một trong những vấn đề nghiêm trọng tại Đồng bằng sông Cửu Long là sụt lún đất, sạt lở bờ sông, biển. Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết đến năm 2018, Đồng bằng sông Cửu Long có 562 vị trí bờ sông, bờ biển bị sạt lở với tổng chiều dài 786km, trong đó có 42 vị trí sạt lở đặc biệt nguy hiểm với tổng chiều dài 149km. Sạt lở không những diễn ra trong mùa mưa mà còn xuất hiện cả mùa khô, ở các tuyến sông chính cho đến các hệ thống kênh, rạch với mức độ ngày càng nhiều và nguy hiểm, điểm nguy hiểm nhất thuộc tỉnh Cà Mau với chiều dài 14km.
Đề xuất giải pháp ứng phó với tình trạng sụt lún đất, sạt lở bờ sông, bờ biển, ông Hoàng Văn Bẩy cho biết cần điều tra, khoanh định các khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất, trước hết tập trung khoanh định các khu vực cần hạn chế do khai thác quá mức. Trên cơ sở đó các địa phương sẽ phê duyệt, công bố và thực hiện các biện pháp hạn chế khai thác nước dưới đất ở địa phương mình theo quy định.
Ông Hoàng Văn Bẩy, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày giải pháp ứng phó với sụt lún đất. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Bên cạnh đó, đơn vị chức năng cần lập bản đồ phân vùng lún cho toàn vùng trên cơ sở sử dụng công nghệ ảnh viễn thám qua các thời kỳ, tích hợp với bản đồ ngập mặn do tác động của nước biển dâng toàn vùng làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương triển khai các giải pháp thích nghi, ứng phó với nguy cơ ngập mặn do tác động kép của nước biển dâng và sụt lún đất.
Ngoài ra, để từng bước hạn chế khai thác nước dưới đất, đơn vị chức năng cần tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình nước sạch nông thôn, trong đó cần đầu tư, xây dựng hệ thống cấp nước tập trung nông thôn khai thác từ nguồn nước mặt nhằm giảm dần việc khai thác nước dưới đất.
Không chỉ sạt lở, Đồng bằng sông Cửu Long cũng đang đối diện với những tác động nghiêm trọng của tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.
Ông Trần Quang Hoài, Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cho biết vào các tháng mùa khô, Đồng bằng sông Cửu Long chịu tác động mạnh bởi xâm nhập mặn, đây là đặc tính của vùng. Mức độ xâm nhập hàng năm có tính quy luật tương đối rõ rệt. Tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn nước thượng lưu sông Mekong về Đồng bằng sông Cửu Long đã thay đổi quy luật tự nhiên bởi việc xây dựng, vận hành các hồ chứa thủy điện thượng lưu, dẫn đến xâm nhập mặn có những thay đổi lớn, gây khó khăn lớn trong việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Theo ông Trần Quang Hoài, để giải quyết xâm nhập mặn, cần rà soát kế hoạch phòng chống thiên tai, phương án ứng phó thiên tai các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long; chủ động nâng cao khả năng dự báo lũ, xâm nhập mặn làm cơ sở để chỉ đạo điều chỉnh mùa vụ sản xuất. Cùng với đó phát hiện và xử lý kịp thời trên 160 vị trí cống bọng, bờ bao bị thấm, rò rỉ nước tại tỉnh An Giang; cắm 186 biển cảnh báo sạt lở; gia cố hơn 580km bờ bao, đắp 207 đập ngăn lũ tại Kiên Giang; gia cố, tôn cao hơn 64km đê bao bảo vệ an toàn hơn 30.000ha lúa Hè Thu tại Long An; chủ động xả lũ lấy nước vào ô bao để lấy phù sa, vệ sinh đồng ruộng với diện tích trên 141.351ha tại An Giang và Đồng Tháp.
Quang cảnh diễn đàn. (Ảnh: Xuân Dự/TTXVN)
Ở góc độ địa phương chịu nhiều tác động của sạt lở ven biển, ông Nguyễn Tiến Hải - Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau, cho biết tình trạng sạt lở ven biển, ven sông tại Cà Mau ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp, khó lường. Tỉnh đã áp dụng nhiều biện pháp phòng chống sạt lở, cả giải pháp công trình và phi công trình, xử lý khắc phục sạt lở nhiều vị trí xung yếu với chiều dài gần 29km. Các đoạn kè gây bồi tạo bãi đã tạo được bãi bồi ven biển phía bên trong kè, khôi phục hàng trăm ha rừng phòng hộ ven biển. Hiện có nhiều doanh nghiệp đăng ký đầu tư các dự án phát triển dịch vụ du lịch, dịch vụ thương mại ven biển.
Để thu hút, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia đầu tư bảo vệ bờ biển, các đại biểu tham dự diễn đàn kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép giao đất cho doanh nghiệp với thời gian từ 50-70 năm và cho chuyển đổi mục đích sử dụng diện tích đất rừng phòng hộ bên trong sau khi doanh nghiệp đầu tư kè tạo bãi và trồng rừng diện tích tương ứng phía ngoài.
Nhiệm vụ thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng nặng nề, các tỉnh vùng ven biển chưa cân đối được ngân sách, hàng năm vẫn còn phải tiếp nhận sự hỗ trợ của Trung ương. Vì vậy các đại biểu cũng kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính không áp dụng cơ chế vay lại các dự án ODA đối với các dự án ứng phó thiên tai theo quy định tại khoản 2, Điều 1, Nghị định số 52/2017/NĐ của Chính phủ do đây là các dự án không trực tiếp sinh lợi khi đầu tư./.
Theo Nguyễn Xuân Dự (TTXVN/Vietnam )
Đề nghị dừng hoàn toàn các hành động lấn sông Hàn ở Đà Nẵng Mạng lưới sông ngòi Việt Nam cho rằng việc xây dựng dự án khu phức hợp và bến du thuyền Marina Complex đang làm trái với quy luật tự nhiên và đề nghị dừng hoàn toàn các hành động lấn chiếm dòng sông Hàn đang xảy ra tại Đà Nẵng. Trước thông tin về việc Dự án Bất động sản và bến du...