Thực hư bí ẩn linh thiêng trong ngôi miếu cổ 400 năm t.uổi
Miếu Bà Chúa Ngọc hay được gọi miếu Bà Chúa sông Cu Đê có lịch sử hàng trăm năm t.uổi và gắn liền với lịch sử của vùng đất nơi đây.
Xuôi theo cửa biển Nam ô chừng 300m về phía tây, hình ảnh gò đất “nhất thiên” nằm giữa lòng sông Cu Đê nơi ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa Ngọc gắn với nhiều câu chuyện huyền bí.
Gò đất nổi như phao cứu sinh
Tọa lạc trên bãi bồi giữa cửa biển Nam ô, phường Hòa Hiệp Bắc- quận Liên Chiểu, Đà Nẵng, miếu Bà Chúa Ngọc hình thành và tồn tại hơn 400 năm trên gò đất bồi giữa lòng sông Cu Đê. Miếu Bà trở thành nơi được người dân không chỉ ở làng Thủy Tú mà cả người dân khắp vùng tôn kính.
Ngôi miếu cổ.
Cụ Trần Út (89 t.uổi) cho biết: “Từ nhỏ tôi đã được các vị cao niên trong thôn kể, ngôi miếu này được xây dựng từ thời Chăm Pa có niên đại hơn 400 năm”. Như lời cụ Út thì xưa kia gò đất nơi có ngôi miếu thờ Bà Chúa sông Cu Đê chỉ là một hòn đá nổi lên giữa lòng sông do bão lớn. Theo thời gian lũ từ thượng nguồn sông Cu Đê kéo theo đất đá mà hình thành nên gò đất như ngày nay.
Trước kia làng chài Thủy Tú chủ yếu sống dọc bên bờ nam của con sông Cu Đê hung dữ bằng nghề chài lưới và chăn nuôi trâu, bò. “Cuộc sống càng trở nên khó khăn, vất vả, bắt buộc người dân phải tìm nơi trồng lúa và chăn nuôi gia súc mới. Gò đất nổi lên giữa sông như chiếc phao cứu sinh càng tiếp thêm sức mạnh cho những người muốn vượt sông sang bên bờ bắc để khai phá đất trồng và chăn thả gia súc. Nhưng kỳ lạ là từ khi gò đất hình thành, người dân và gia súc đi qua đoạn sông này c.hết do đuối nước ngày càng nhiều hơn”, ông Út nói.
Cụ Trần Út.
Sự hình thành của ngôi miếu đến nay dù không ai biết rõ, nhưng trong tâm tưởng người dân vùng đất sông nước nơi đây, miếu Bà ẩn chứa những câu chuyện huyền bí. Ông Út kể tiếp: “Được tin nhiều người cùng bầy gia súc c.hết do đuối nước, người dân làng Thủy Tú hết sức hoang mang và không dám vượt sông. Thế rồi, một người phụ nữ trong làng bỗng dưng nói rằng người dân làng Thủy Tú “phải” xây dựng một ngôi miếu thờ thì mới được bình an vô sự. Vậy là ngôi miếu được hình thành từ đó”.
Để tìm hiểu thực hư cho những câu chuyện ly kỳ đó, PV tìm đến nhà cụ Lê Lục, người được dân Thủy Tú kính trọng và hằng suy tôn như một cuốn lịch sử của làng. Dù đã ngoài 90 t.uổi nhưng khi chúng tôi hỏi về ngôi miếu cổ thờ Bà Chúa sông Cu Đê thì ánh mắt cụ ngời lên tỏ vẻ tinh anh.
Video đang HOT
Cụ Lục cho PV biết: “Từ thời Chăm Pa đang còn sinh sống trên vùng đất này, Bà Chúa Ngọc được gọi là Po Yan Inư Nagar (thường gọi là Po Nagar) là thần Mẹ xứ sở. Bà là người tạo dựng nên vương quốc, người đã giáng sinh giữa mây trời và bọt biển. Theo truyền thuyết, bà có 97 chồng, sinh được 38 người con. Bà là người tạo ra muôn loài trên trái đất, bà còn là người tạo ra cây trầm hương và sản sinh nghề trồng lúa nước ngày nay.
Không những vậy, bà chính là người mang mưa thuận gió hòa cho mùa màng, thuận lợi cho xứ chài Thủy tú đ.ánh bắt cá trên vùng hạ lưu sông Cu Đê. Người Chăm cho rằng, Po Yan Inư Nagar chính là nữ thần Uma, vợ hay thần nữ của thần Siva, còn có tên là thần Bhagavati”.
Cụ Lục còn cho biết thêm: “Cách đây hơn 400 năm người dân xứ Thủy Tú (làng Thủy Tú – Nam Ô ngày nay) rất nghèo khổ, cuộc sống chủ yếu bằng nghề chài lưới bên con sông Cu Đê hung dữ, vì vậy hàng năm có rất nhiều người c.hết do nước lũ làm lật thuyền. Sau khi được Bà “hiển linh chỉ bảo” người dân nơi đây đã cùng nhau quyên góp tre, nứa mà xây dựng nên ngôi miếu thờ Bà trên chính gò đất giữa lòng sông này “.
Nhớ công ơn của Bà chúa nước
Theo tìm hiểu của PV, ban đầu ngôi miếu được xây dựng chủ yếu bằng tre nứa, lưng miếu tựa vào thượng nguồn sông Cu Đê, mặt miếu hướng ra cửa biển Nam Ô.
Khi thấy PV thắc mắc về hướng của ngôi miếu thì cụ Lục liền giải thích: “Sở dĩ ngôi miếu có hướng như vậy vì theo truyền thuyết của người Chăm, Bà Chúa Ngọc là vị thần được sinh ra từ thân cây trầm hương, người xuôi từ sông ra biển để đi khắp muôn phương. Do đó hướng của miếu được xây như vậy nhằm mục đích nhắc nhở thế hệ sau này nhớ về nguồn gốc và công ơn của Bà Chúa nước.
Đến thời vua Gia Long, ngôi miếu được dựng lại bằng gạch theo lối kiến trúc vòm cuốn. Mái miếu được tạo thành bởi ba tầng, kiểu mái cong, các đầu đao vút lên, lợp ngói liệt, có đường cổ diêm giả. Và sắc thượng phong cho miếu Bà là “Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần”. Trải qua thời gian, ngôi miếu cũ đã xuống cấp trầm trọng nên năm 1980, được sự quyên góp của dân làng Thủy Tú, ngôi miếu đã được tu sửa lại và xây dựng bằng vôi vữa nhưng vẫn giữ lối kiến trúc mang phong cách thời Lê (thế kỷ XVI- XVII). Đặc biệt, trên nóc miếu và các cột đá được gắn các họa tiết hoa văn với cặp rồng đá độc đáo, trên tường của miếu được khắc chữ Hán cổ với nhiều hình thù động vật kỳ dị.
Miếu Bà Chúa sông Cu Đê còn là một chứng tích lịch sử hào hùng của người dân nơi đây trong phong trào kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Là bộ đội chiến đấu trên vùng của biển này nhiều năm, cụ Lục nói thêm: “Thời kháng chiến chống Mỹ miếu Bà không những là nơi người dân làng Thủy Tú che giấu bộ đội mà nơi này còn là nơi tập kết vũ khí, đạn dược và lương thực đưa vào chiến trường miền Nam. Điều kỳ lạ là có hàng nghìn bộ đội và dân quân tải gạo và đạn bơi qua lại nơi đây nhưng chưa bao giờ có một ai bị đuối nước c.hết”. “Mỹ nhiều lần dùng máy bay n.ém b.om đ.ánh phá nơi này nhưng chưa một quả bom nào rơi trúng ngôi miếu, dù tất cả cây cối trên gò đều bị bom đ.ánh gãy đổ hết”, cụ Lục cho biết.
Cụ Lục kể tiếp: “Năm 2006 bầu trời trong xanh nhưng bỗng có một trận gió to đùng đùng nổi lên kéo theo nhiều tiếng sấm lớn làm cho dân làng hoảng sợ vội kéo hết thuyền và ngư cụ vào bờ. Khoảng 2 giờ sau, một trận lũ lớn từ thượng nguồn đổ về khiến cho những ai chứng kiến cảnh đó cũng hết sức bàng hoàng”.
Sau đó, người dân Thủy Tú tin rằng trận gió lớn nổi lên trước cơn lũ chính là lời cảnh báo của Bà Chúa Ngọc đối với dân làng. Càng vững tin hơn vào sự linh thiêng và chở che của ngôi miếu thần, từ bao đời nay cứ mỗi lần ngư dân đ.ánh bắt cá chạy thuyền, thúng qua đây họ lại kính cẩn chào Bà và cầu mong cho một ngày tôm, cá đầy thuyền.
Theo thông lệ cứ vào ngày 20/6 (âm lịch) và dịp Tết Nguyên đán hàng năm, người dân làng Thủy Tú cùng hàng trăm khách thập phương khắp nơi lại mang lễ vật về đây để tưởng nhớ, kính ơn công đức của Bà Chúa.
Lấy miếu cổ là khu du lịch tâm linh
Trao đổi với PV về ngôi miếu cổ, ông Trần Phước Huấn, Phó Chủ tịch UBND phường Hoà Hiệp Bắc cho biết: “Ngôi miếu hàng năm nhân dân địa phương thờ cúng mang tính chất tâm linh về lịch sử. Hiện tại cũng có một số du khách địa phương nơi khác đến tham quan.
Trong thời gian tới, chính quyền địa phương sẽ tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất để xây dựng khu du lịch sông Cu Đê, lấy miếu cổ là khu du lịch tâm linh để nhân dân và khách du lịch giữ gìn truyền thống Văn hoá tâm linh của địa phương”.
Theo Người Đưa Tin
Kỳ bí ngôi cổ miếu tối kỵ với những kẻ bán độ
Người sống gần khu sinh thái Rú Chá đã đồng tâm góp t.iền sửa chữa lại ngôi miếu 300 năm t.uổi gắn liền với nhiều giai thoại thú vị, mang đậm giá trị văn hóa tín ngưỡng.
Một ngôi cổ miếu nằm trong lòng cây si
Những ngày tháng 5/2014 này, người sống gần khu sinh thái Rú Chá (thôn Thuận Hòa, xã Hương Phong, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế) đã có việc làm đặc biệt là đồng tâm góp t.iền sửa chữa lại ngôi miếu 300 năm t.uổi gắn liền với nhiều giai thoại thú vị, mang đậm giá trị văn hóa tín ngưỡng.
Ba đời canh miếu
Cổ miếu nằm trong khu vực sinh thái rú chá rộng 5ha, xung quanh cây cối rậm rạp, um tùm. Nền đất nơi miếu được dựng là một bán đảo, hai cây cổ thụ ôm hai bên miếu tạo được bóng mát. Ngôi miếu chia làm ba cấp. Cao nhất là nơi đặt 3 bài vị thờ bà thánh mẫu, đệ nhất tứ thần và đệ nhị tứ thần. Hai bậc dưới để bát nhang và đồ thờ cúng, chuông mõ, hai con ngựa nhỏ đứng bên hai chiếc ghe.
Người làng Thanh Phước kể lại, từ nhỏ đã nghe đời cha ông kể lại, một năm cách đây khoảng hơn 300 năm, làng mới lập thì trong cơn lũ lụt có một bát nhang làm bằng gỗ dựng đứng trôi dạt về, tới vị trí giữa Rú Chá thì đứng khựng lại. Nước rút, người trong làng thấy chuyện lạ, cứ để nguyên bát nhang ở vị trí đó thờ cúng.
Ít ngày sau, một nhóm người ở trên xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà về xin chuộc lại bát nhang. Bữa đó trời đang nắng chang chang lại bỗng nhiên có giông tố sét đ.ánh dữ dội. Trả lại bát nhang, người làng Thuận Hòa mua bát nhang mới, lập miếu thờ nơi vị trí cũ. Người ta cho rằng bát nhang thờ một "vị thần" trôi về đây để phò hộ cho dân làng.
Ông Đặng Duy Bản (72 t.uổi, người tình nguyện hầu từ cho miếu bà đã hơn 30 năm) kể lại, gia đình ông nối "nghề" đặc biệt này. Ông nội ông hầu từ 50 năm, cha ông 45 năm, tính đến đời ông là tổng cộng 125 năm tự nguyện lo nhang khói cho miếu.
"Tôi có nhiều kỷ niệm vui buồn trên miếu này lắm. Hồi 7 t.uổi cha tôi cùng một số người dắt tôi đi vào Rú Chá để thắp nhang. Lần đó mọi người bị đàn ong bay ra đốt chạy tán loạn, tôi thì "đứng như trời trồng" nhưng không hiểu sao những con ong này không đốt tôi một nhát nào. Rồi năm 14 t.uổi, tôi cùng cha đi vào vệ sinh, dọn dẹp cho miếu, hoảng sợ thấy một cặp rắn to bằng cổ chân vặn mình quẫy đạp trong miếu. Quỳ lạy khấn vái, ngẩn đầu lên đã không còn thấy hai con rắn nữa", ông Bản nhớ lại.
Ông nội và cha ông Bản qua hai cuộc chiến tranh, đối mặt nguy hiểm bao lần nhưng không bị một vết đạn, con cháu đề huề, kinh tế khá giả. Ông nội thọ 73 t.uổi,
cha ông Bản thọ 83. Người cha trước lúc qua đời trăn trối dặn dò con cháu phải tiếp tục lo trông miếu bà. Người trong làng cho phép lăng mộ của ông nội và cha ông Bản được chôn cất cạnh miếu.
Vợ ông Bản "lo xa": "Sau này, khi mà chồng tôi qua đời thì cũng phải chọn đứa con nào có tâm huyết để truyền lại việc chăm lo cho miếu". Hiện ông lão đang "luyện" cho đứa con trai 26 t.uổi những công việc này.
Tối kỵ những kẻ bán độ?
Những truyền thuyết hư hư thực thực về ngôi miếu cứ quanh quẩn, nên người làng chẳng ai dại gì "phạm" đến ngôi miếu, đồ lễ thờ cúng có khi để mốc xanh cũng chẳng đ.ứa t.rẻ nào mon men.
Có những tai nạn tình cờ xảy ra, nhưng người ta cứ "đổ vấy" cho ngôi miếu, như câu chuyện liên quan đến cuộc đua ghe 14 năm về trước. Truyền thuyết cho rằng "nữ thần" và hai con trong miếu mê đua ghe (thế nên trong miếu mới thờ 2 chiếc ghe nhỏ bên cạnh hai con ngựa - NV), nên mỗi khi người làng đi đua đều tới đây để cúng vái. Suốt nhiều năm trước và sau năm 2000, đội ghe làng này đua đâu là thắng đó nên có một người khi ấy 36 t.uổi ở thôn Vân Quật Đông (xã Hương Phong) lén lút tới phá miếu, đem những lá cờ g.iải t.hưởng về nhà nó may quần đùi để mặc. Một tuần sau mới phát hiện ra "nghi phạm", sự việc được trình báo cho trưởng làng. Nhưng hội đồng tộc trưởng của làng chưa kịp họp thì nghi phạm đã bị "báo ứng", cả nhà bị cháy, trâu heo nuôi trong chuồng cũng cháy đen, người bị nghi là kẻ trộm thì bị bệnh bụng to bất thường. "Sau đó người này xin làng đem mâm cau trầu rượu về đây để cúng tạ lỗi, nhưng hiện tại cái bụng của anh ta vẫn to hơn người", một bô lão kể lại.
Một câu chuyện khác mới xảy ra cách đây 3 năm, càng khiến người làng cho rằng "thần miếu" "trừng phạt" những kẻ bán độ. Một tay đua nhớ lại: "Năm đó ghe chúng tôi được đại diện cho xã Hương Phong đi thi tỉnh ở sông Hương, ghe chúng tôi chạy chậm lạ thường và thua cuộc. Nhiều người quan sát và thấy rằng một người trong đội đua không chịu chèo, đi điều tra thì biết anh ta đã lấy 200 nghìn từ đội đua của xã bên. Rất nhiều người la mắng anh ta. Nửa tháng sau anh về ở đầm phá Tam Giang để kéo vó, không ngờ thuyền của anh bị đèn nổ khiến một người con tai nạn đau đớn, còn anh với vợ cũng phải đi nằm viện. Anh ta sau đó cũng quay lại tạ lỗi, nhưng nay gặp ai trong đội đua ghe, đều cúi đầu như hổ thẹn".
Trong hơn 300 năm qua, miếu đã được sửa chữa vài lần. Lần đầu tiên cách đây khoảng 100 năm, lúc đó một viên quan đại thần của triều Nguyễn là ông Trần Hữu Thành, có một cô con gái rất xinh đẹp nhưng bỗng nhiên mắc bệnh lạ. Tương truyền một hôm ông về cúng bái, sau đó lấy một loại hoa dại cạnh miếu đem về nấu nước cho con gái uống. Cô gái tình cờ khỏi bệnh, vị quan cho người chở đá, gạch xuống dựng lại ngôi miếu. Cũng vì sự tích này mà cứ vào ngày kị của "nữ thần" là ngày 3/3 âm lịch, rất nhiều người tới đây xin lá, xin hoa đem về nấu nước uống. Trong ngày này, lễ vật cúng thường là hoa, chuối, xôi, gà và buộc phải có muối hột. Ai cũng "xin lộc" này, lấy muối này về hòa với nước điểm lên mắt cầu mong sức khỏe.
Ông Nguyễn Văn Đáng (54 t.uổi, trưởng thôn Thuận Hòa) cho biết: "Vẫn biết những câu chuyện linh ứng về ngôi miếu chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng có một thực tế là người làng đoàn kết, thân thiện hơn, trên bảo dưới nghe, gia đình thuận hòa, một phần vì người làng có chung một niềm tin vào "thần miếu", để dù đi xa hay ở gần, không ai dám làm gì sai trái, từ đó cuộc sống được bình an".
Theo Xahoi
Tạm giữ hàng trăm phách gỗ hương Sáng 21.5, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC46) Công an TP.Đà Nẵng đã tạm giữ hàng trăm phách gỗ hương không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Hàng trăm phách gỗ hương chất đầy 3 toa tàu Trước đó, lúc 21 giờ ngày 6.5, tàu lửa mang số hiệu 224 T1 chạy...