Thủ tướng: Việt Nam và Trung Quốc cần xử lý thoả đáng những bất đồng
Trao đổi với Phó Thủ tướng Trung Quốc Trương Cao Lệ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thống nhất quan điểm xử lý thỏa đáng các tranh chấp trên biển theo hướng nghiêm túc thực hiện các thoả thuận cấp cao, kiểm soát có hiệu quả mọi bất đồng và hợp tác trong những lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển.
Chiều 16/7/2015, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp ông Trương Cao Lệ, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc đang có chuyến thăm Việt Nam.
Nhiệt liệt hoan nghênh Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ thăm Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chuyến thăm có ý nghĩa quan trọng, diễn ra trong năm hai nước Việt Nam – Trung Quốc kỷ niệm 65 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ hai nước đang trên đà cải thiện và phát triển tích cực, lãnh đạo hai Đảng, hai nước duy trì tiếp xúc, trao đổi thường xuyên, đạt nhiều nhận thức chung quan trọng về thúc đẩy quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc phát triển ổn định, bền vững.
Thủ tướng tiếp Phó Thủ tướng Trung Quốc Trương Cao Lệ tại trụ sở Chính phủ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, là hai nước láng giềng, quan hệ hai nước 65 năm qua có lúc thăng trầm, nhưng hữu nghị vẫn luôn là dòng chảy chính trong quan hệ giữa hai Đảng, hai nước. Việt Nam nhận thức sâu sắc về quan hệ đặc biệt giữa hai nước được các thế hệ lãnh đạo tiền bối Việt Nam và Trung Quốc dày công vun đắp là tài sản chung vô cùng quý báu mà hai nước phải cùng nhau gìn giữ, vun đắp ngày càng tốt đẹp hơn để quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc được thực thi một cáchsâu rộng, tốt đẹp và hiệu quả.
Thủ tướng khẳng định Việt Nam trước sau như một hết sức coi trọng việc duy trì và phát triển ổn định, bền vững quan hệ hợp tác hữu nghị với Đảng, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc và luôn xác định đây là chủ trương nhất quán, lâu dài và là sự lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị hai nước cần tăng cường hợp tác hữu nghị, xử lý thỏa đáng bất đồng, cùng nhau tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để tập trung hợp tác phát triển. Đây là lợi ích chung căn bản, to lớn và lâu dài của hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt – Trung.
Về phần mình, Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ khẳng định Trung Quốc luôn coi trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác với Việt Nam, sẽ nỗ lực hết mình để cùng với Viện Nam đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
“Mục đích chuyến thăm Việt Nam của tôi là cùng với các đồng chí Việt Nam triển khai những thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước. Đó là tăng cường hữu nghị, tin cậy chính trị; xử lý thỏa đáng bất đồng, hợp tác thực chất, cùng có lợi, cùng thắng, đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc – Việt Nam phát triển lành mạnh, ổn định, lâu dài” – Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ phát biểu.
Với nhận thức chung này, tại cuộc tiếp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ cùng đề cập và nhất trí việc hai bên tăng cường tin cậy chính trị thông qua việc duy trì các cuộc tiếp xúc và trao đổi cấp cao; đồng thời thông qua tiếp xúc, hai bên cần kịp thời trao đổi ý kiến về những vấn đề trọng đại trong quan hệ hai nước; kịp thời tháo gỡ những vướng mắc phát sinh trong quá trình hợp tác; bảo đảm cho quan hệ hai nước phát triển theo quỹ đạo đúng đắn.
Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ cho biết Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tập Cận Bình coi trọng cao độ lời mời thăm Việt Nam của các nhà lãnh đạo Việt Nam và đề nghị hai bên phối hợp chặt chẽ để thu xếp cho chuyến thăm này. Ông Trương Cao Lệ cũng nhắc lại lời của các nhà Lãnh đạo Trung Quốc mời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sớm thăm chính thức Trung Quốc.
Hai bên cũng nhất trí việc hai nước tăng cường hợp tác thực chất trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, du lịch. Hai bên tin tưởng kim ngạch thương mại song phương sẽ đạt mốc 100 tỷ USD trong thời gian tới và nhất trí bảo đảm quan hệ kinh tế thương mại phát triển theo hướng cân bằng, chất lượng, hiệu quả, mang lại lợi ích cho cả hai bên.
Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ thừa nhận quan hệ thương mại mất cân bằng và Trung Quốc xuất siêu lớn sang Việt Nam; đồng thời cam kết tạo thuận lợi và tăng cường nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, trong đó có gạo.
Hai bên nhất trí phát huy tốt vai trò của hai Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ tầng và tiền tệ; đồng thời nhất trí thảo luận về việc phía Trung Quốc mong muốn tham gia đầu tư một số dự án xây dựng cơ sở hạ tầng lớn tại Việt Nam cũng như các ý tưởng về kết nối chiến lược phát triển hai nước, hợp tác nâng cao năng lực sản xuất.
Hai bên nhất trí khuyến khích tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các địa phương, nhất là các địa phương biên giới; thúc đẩy xây dựng khu kinh tế xuyên biên giới giữa hai nước; tăng cường giao lưu nhân dân, nhất là giao lưu thế hệ trẻ; hợp tác trong đào tạo cán bộ.
Hai bên nhất trí nguyên tắc nghiêm túc thực hiện các thoả thuận cấp cao, không mở rộng tranh chấp, làm căng thẳng tình hình trên biển.
Về vấn đề trên biển, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị hai bên tuân thủ các thỏa thuận và nhận thức chung quan trọng của lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước về việc kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, cùng nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông; thực hiện nghiêm túc, đầy đủ “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc” và Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), sớm cùng các nước ASEAN hoàn tất xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), xử lý thỏa đáng các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật biển của LHQ năm 1982, cùng nhau giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển của hai nước và của khu vực..
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị hai biên triển khai hiệu quả cơ chế đàm phán về vấn đề trên biển, thúc đẩy giải quyết thỏa đáng các vấn đề liên quan; tích cực triển khai đầy đủ những lĩnh vực hợp tác đã nhất trí, trong đó có việc thúc đẩy đàm phán phân định đi đôi với hợp tác cùng phát triển ở khu vực ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ.
Về vấn đề này, Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ nhất trí với ý kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đồng thời nhấn mạnh hai bên cần nghiêm túc thực hiện các thỏa thuận mà lãnh đạo cấp cao hai nước đã thống nhất; không mở rộng tranh chấp, không làm gia tăng căng thẳng, phức tạp thêm tình hình; kiểm soát có hiệu quả mọi bất đồng và cùng nhau hợp tác trong những lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển.
Video đang HOT
P.Thảo
Theo Dantri
TS.Trần Công Trục: Về thông tin từ Campuchia rằng Việt Nam "nhượng bộ"
Vấn đề mấu chốt là phải thống nhất cách sử dụng đường biên giới được vẽ trên 26 mảnh bản đồ Bonnes tỷ lệ 1/100.000 của Sở địa dư Đông Dương xuất bản.
LTS: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được bài phân tích của Tiến sĩ Trần Công Trục xung quanh việc quản lý biên giới Việt Nam - Campuchia trong bối cảnh hiện nay.
Trước những diễn biến căng thẳng ngoài biên giới do một số thế lực chính trị đối lập Campuchia kích động người dân nước này tràn qua cột mốc 203 vừa qua, báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng gửi tới quý độc giả bình luận của Tiến sĩ Trần Công Trục nhằm cung cấp thêm thông tin, góc nhìn về mặt pháp lý cũng như thực tiễn trong công tác quản lý biên giới Tây Nam đất nước.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Thứ Tư tuần trước ngày 8/7 Bộ trưởng Nội vụ Campuchia Sar Kheng tuyên bố với báo giới rằng, cơ quan này sẽ phối hợp với Ủy ban Biên giới Chính phủ Campuchia mở các lớp tập huấn về quản lý biên giới cho các Tỉnh trưởng, Cảnh sát trưởng, Tư lệnh Cảnh sát quân sự các tỉnh có đường biên giới với Việt Nam.
Ngày 11/7 khi kết thúc phiên đàm phán giữa Ủy ban Biên giới Chính phủ 2 nước Việt Nam - Campuchia kết thúc, phía Campuchia tuyên bố Việt Nam chấp nhận lấp 3 trong số 8 ao mà người Việt đào trên vùng chồng lấn với Campuchia và sẽ điều tra số còn lại.
Truyền thông Campuchia cũng dẫn lời các quan chức nước này nói rằng Việt Nam đồng ý ngừng xây dựng một "căn cứ quân sự" (đồn Biên phòng?) gần biên giới với Campuchia, các tuyến đường đang thi công giáp biên với tỉnh Svay Rieng cũng được dừng lại.
Dư luận đang đặc biệt quan tâm và theo dõi các diễn biến tiếp theo, trong đó có những quan điểm băn khoăn liệu có phải Việt Nam "nhượng bộ" trong vấn đề biên giới với Campuchia hay không, nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
Trước hết, chúng ta nên trở lại với quy trình giải quyết vấn đề biên giới đất liền giữa các quốc gia theo thông lệ quốc tế.
Về cơ bản, quy trình này thường trải qua 4 giai đoạn:
1.Thỏa thuận nguyên tắc
2.Hoạch định
3.Phân giới cắm mốc
4.Thỏa thuận quy chế bảo vệ, quản lý biên giới, mốc giới.
Để có được Hiệp ước hoạch định biên giới, các bên phải dựa vào nguyên tắc pháp lý đã chính thức thỏa thuận lấy làm cơ sở để hai bên tiến hành đàm phán hoạch định biên giới; tức là đàm phán để thống nhất mô tả hướng đi của đường biên giới bằng lời văn và thể hiện hướng đi của đường biên giới được mô tả này lên một bộ bản đồ địa hình tốt nhất mà hai bên đã thông nhất lựa chọn.
Sau khi ký kết và phê chuẩn Hiệp ước hoạch định biên giới, hai bên sẽ căn cứ vào hướng đi của đường biên giới được mô tả trong Hiệp ước này để tiến hành giai đoạn phân giới cắm mốc; tức là giai đoạn chuyển đường biên giới đươc mô tả và thể hiện trên bản đồ kèm theo Hiệp ước hoạch định ra thực địa và cố định đường biên giới trên thực địa bằng một hệ thống mốc quốc giới chính quy hiện đại.
Khi hoàn thành giai đoạn phân giới cắm mốc trên toàn tuyến biên giới (sau khi đã ký xong Nghị định thư xác nhận kết quả phân giới cắm mốc và hoàn thiên các hồ sơ, bản đồ ...của từng mốc quốc giới ), hai bên sẽ tiến hành đàm phán ký kết các văn kiện pháp lý để quản lý, bảo vệ biên giới, mốc giới... kể cả vấn đề hợp tác khai thác chung các tài nguyên nằm trên đường biên giới chung, như nguồn nước, việc đi lại, đánh bắt thủy sản trên sông suối biên giới, các cảnh quan, du lịch...
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Campuchia Hun Sen trong lễ cắt băng khánh thành cột mốc biên giới số 171. Ảnh: China Daily.
Việt Nam và Campuchia đã trải qua một quá trình thương lượng, đàm phán hết sức nghiêm túc, thiện chí hợp tác, bình đẳng và công tâm. Trước hết hai bên đã thông nhất ký Hiệp ước nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới năm 1983 sau khi đã nghiên cứu, xem xét rất thận trọng quá trình hình thành đưởng biên giới pháp lý trên đất liền giữa 2 nước.
Nội dung quan trọng của Hiệp ước này là hai bên thống nhất sử dụng đường biên giới được thể hiện trên 26 mảnh bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 do Sở Địa dư Đông Dương xuất bản trước năm 1954 làm căn cứ pháp lý để tiến hành đàm phán hoạch định biên giới. Tất nhiên, hai bên phải căn cứ vào Hiến pháp của mỗi nước để đàm phán thương thảo một cách thận trọng và cầu thị để tìm ra các giải pháp mà hai bên đều chấp nhận được mà không trái với Hiến pháp của mỗi nước.
Công việc quan trọng đầu tiên là chuyên gia kỹ thuật, pháp lý của hai bên cùng nhau nghiên cứu, đối chiếu trên cơ sở các bản gốc và đã loại bỏ một số tấm bản đồ không phải bản gốc, thậm chí cũng đã phát hiện và đã loại bỏ một số tấm bản đồ có sự cạo sửa...Vì vậy, có thể nói, 26 mảnh bản đồ mà hai bên đã thông nhất lựa chọn được ghi nhận trong Hiệp ước nguyên tắc là hoàn toàn đáng tin cậy.
Chính vì thế mà hai bên đã thống nhất được về cơ bản nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985. Tức là đã hoàn toàn thống nhất lời văn mô tả hướng đi của đường biên giới và thể hiện hướng đi đó trên một bộ bản đồ địa hình UTM tỷ lệ 1/50.000 của Mỹ sản xuất.
Tôi cũng xin nói thêm, trước khi thể hiện hướng đi của đường biên giới trên một bộ bản đồ địa hình, phía Việt Nam có đề nghị với Campuchia cùng hợp tác bay chụp để biên vẽ một bộ bản đồ địa hình mới hiện đại và chuẩn xác nhất, nhưng phía Campuchia chưa đồng ý và đề nghị sử dụng bộ bản đồ địa hình UTM của Mỹ xuất bản.
Cuối cùng hai bên cũng đã thống nhất lựa chọn bộ bản đồ địa hình của Mỹ để thể hiện hướng đi của đường biên giới theo đúng lời văn mô tả của Hiệp ước hoạch định. Kết quả là hai bên đã thống nhất soạn xong Hiệp ước hoạch định và đã tiến hành ký kết, phê chuẩn theo đúng thủ tục pháp lý quốc tế.
Hiệp ước hoạch định biên giới trên bộ năm 1985 và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định 1985, ký năm 2005, là những văn kiện pháp lý quốc tế có giá trị cao nhất trong quan hệ biên giới lãnh thổ giữa 2 quốc gia có chủ quyền.
Chúng là căn cứ pháp lý duy nhất mà hai bên phải dựa vào để tiến hành phân giới cắm mốc. Tức là công việc tiến hành chuyển đường biên giới được mô tả trong Hiệp ước hoạch định ra thực địa và cố định nó bằng một hệ thống mốc quốc giới chính quy hiện đại.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Campuchia Hun Sen tại lễ cắt băng khánh thành cột mốc 314. Ảnh: VGP.
Đến nay, công tác phân giới cắm mốc đã thực hiện được khoảng trên 78% khối lượng công việc; đã cắm được các mốc giới ở hầu hết các địa điểm quan trọng như: cửa khẩu, nơi có đường giao thông cắt qua biên giới, nơi có dân cư tập trung sinh sống và canh tác, đặc biệt là cắm được cột mốc ở ngã 3 biên giới Việt Nam - Lào - Campuchia và mốc cuối cùng của biên giới đất liền, mốc số 314 trước sự chứng kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Hun Sen ngày 24 tháng 6 năm 2012.
Căn cứ vào thủ tục pháp lý có liên quan đến quá trình giải quyết phân định biên giới trên đất liền, kết quả nói trên vẫn chưa đầy đủ cơ sở pháp lý để Việt Nam và Campuchia tiến hành quản lý biên giới theo đường biên giới và mốc giới mới. Trong tình hình đó, việc quản lý và xử lý các tranh chấp biên giới hiện nay giữa 2 bên phải được giải quyết trên cơ sở nào?
Vấn đề mấu chốt là phải thống nhất cách sử dụng đường biên giới được vẽ trên 26 mảnh bản đồ Bonnes
Đó là câu hỏi cần được giải đáp một cách kịp thời và hợp lý nhất, nếu không muốn để các thế lực chống đối tiếp tục lợi dụng, kiếm cớ để kích động dư luận nhằm phá hoại thành quả giải quyết biên giới giữa hai bên, gây nên tình trạng bất ổn chính trị, xã hội...
Trong tình hình phức tạp hiện nay, trước hết, hai bên cần thống nhất cách hiểu và giải thích các văn kiện pháp lý mà hai bên đã thỏa thuận lấy làm căn cứ để xử lý các tranh chấp xẩy ra trong khi hai bên đang tiến hành những phần việc còn lại của quá trình giải quyết vấn đề biên giới.
Các văn kiện pháp lý đó là: Hiệp định về quy chế biên giới giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ngày 20 tháng 7 năm 1983. Trên danh nghĩa pháp lý thì cho đến nay Hiệp định này vẫn còn hiệu lực, mặc dù nó đã tồn tại trên 10 năm, với 2 lần mặc nhiên gia hạn theo quy định về hiệu lực của Hiệp dịnh này.
Hiệp định này có 19 điều, trong đó có những điều khoản quy định ranh giới quản lý tạm thời trong khi chờ kết quả giải quyết biên giới mới giữa 2 nước và quy định xử lý các quan hệ xã hội diễn ra trong khu vực biên giới.
Thông cáo báo chí ngày 17 tháng 01 năm 1995; đặc biệt là nội dung nêu tại Điểm 8: "Hai bên khẳng định lại lòng mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai nước thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị,ổn định lâu dài, góp phần phát triển quan hệ hợp tác láng giềng tốt đẹp giữa hai nước.
Hai bên thỏa thuận trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay, không thay đổi, xê dịch các cột mốc biên giới; giáo dục không để nhân dân xâm canh, xâm cư và cùng nhau hợp tác giữ gìn an ninh trật tự biên giới".
Tôi cũng xin nhấn mạnh rằng, về mặt pháp lý, giá trị của Thông cáo báo chí không thể thay thế cho Hiệp định quy chế biên giới năm 1983 vẫn đang còn hiệu lực thi hành. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là về cơ bản nội dung của chúng không mâu thuẫn nhau. Nghĩa là: Trong khi chờ đợi giải quyết những vấn đề tồn tại về biên giới thì duy trì sự quản lý hiện nay, không thay đổi, xê dịch các cột mốc..." Vấn đề là phải hiểu nội dung "duy trì sự quản lý hiện nay..." như thế nào?
Hiện nay, hai bên vẫn còn những nhận thức và giải thích còn khác nhau, xuất phát từ những hoàn cảnh, động cơ khác nhau.
Ông Var Kim Hong, Trưởng ban Biên giới Chính phủ Campuchia. Ảnh: Cambodianow.info
Theo tôi, vấn đề mấu chốt là phải thống nhất cách sử dụng đường biên giới được vẽ trên 26 mảnh bản đồ Bonnes tỷ lệ 1/100.000 của Sở địa dư Đông Dương xuất bản trước năm 1954 đã được nêu tại Điều 1:
"Cho đến khi được hoạch định chính thức, biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia là đường biên giới hiện tại được thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương (Ser-vice Géographique de l'Indochine) thông dụng trước năm 1954 hoặc gần năm 1954 nhất như quy định ở Điều 1 Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia ký ngày 20 tháng 7 năm 1983".
Như tôi đã nêu ở trên, đường biên giới trên 26 mãnh bển đồ Bonnes nói trên đã được hai đoàn đàm phán thông nhất lựa chọn và đã chuyển sang bản đồ địa hình UTM của Hoa Kỳ để trở thành nội dung của Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 mà hai bên đã chính thức ký kết và phê chuẩn theo đúng thủ tục pháp lý.
Dựa vào hướng đi của đường biên giới đã được vẽ trên bản đồ UTM của Hoa Kỳ kèm theo Hiệp ước hoạch định năm 1985 là đúng đắn và hoàn toàn hợp lý; bởi vì:
Đó chính là đường biên giới của 26 mảnh bản đồ Bonnes đã dược hai bên thống nhất lựa chọn một cách thận trong, khách quan. Đặc biệt, là các chuyên gia kỹ thuật bản đồ của cả hai bên đã hợp tác cùng chuyển đổi từ hệ quy chiếu thiết lập bản đồ Bonnes sang hệ quy chiếu xác lập bản đồ UTM theo những phương pháp tính toán đáng tin cậy nhất hiện tại.
Phù hợp với quy định tại điều 1 của Hiệp định quản lý biên giới nói trên. Trong đó có nêu một điều kiện tiên quyết về thời hạn sử dụng ranh giới quản lý tạm thời là"cho đến khi được hoạch định chính thức"; điều đó có nghĩa là khi đã hoàn thành giai đoạn hoạch định biên giới thì việc quản lý biên giới về nguyên tắc phải theo đường biên giới được mô tả trong Hiệp ước hoạch định.
Tuy nhiên, trong thực tế việc phân giới cắm mốc chưa hoàn tất, những vấn đề đo đạc tính toán chuyển đường biên giới mô tả trong Hiệp ước hoạch định ra thực địa không tranh khỏi những sai số. Có những khu vực do có nhiều yếu tố tự nhiên và dân cư... mà tạo ta những sai số lớn, thậm chí hai bên cần phải ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định đã ký và có hiệu lực vì những sai số đó, thậm chí không chỉ một lần bổ sung.
Đó cũng là chuyện thường xảy ra trong thực tiễn quốc tế. Vì vậy, khi xử lý những tranh chấp do cách giải thích và áp dụng các quy định nói trên, hai bên phải trên tinh thần cầu thị, hợp tác để cùng nhau đi khảo sát tại thực địa để tìm ra giải pháp thực tế nhất đối với một số khu vực phức tạp mà cách giải thích vận dụng còn khác nhau.
Ông Var Kim Hong giới thiệu về 26 mảnh bản đồ Bonnes. Ảnh: The Cambodia Daily.
Một số thông tin phía Campuchia mới đưa ra không phản ánh đầy đủ nội dung Việt Nam đưa ra trong đàm phán
Do đó, những thông tin từ phía Campuchia cung cấp có liên quan rằng: "Ngày 11/7 khi kết thúc phiên đàm phán giữa Ủy ban Biên giới Chính phủ 2 nước Việt Nam - Campuchia kết thúc, phía Campuchia tuyên bố Việt Nam chấp nhận lấp 3 trong số 8 ao mà người Việt đào trên vùng chồng lấn với Campuchia và sẽ điều tra số còn lại;
Việt Nam đồng ý ngừng xây dựng một "căn cứ quân sự" gần biên giới với Campuchia, các tuyến đường đang thi công giáp biên với tỉnh Svay Rieng cũng được dừng lại..." theo tôi được biết là hoàn toàn không phản ánh đầy đủ nội dung mà phía Việt Nam đã đề cập trong cuộc gặp vừa qua.
Trong đàm phán, phía Việt Nam đã đồng ý sẽ cùng Campuchia ra thực địa xem xét cụ thể để giải quyết tranh chấp theo đúng nội dung đã được hai bên thỏa thuận. Nếu bên nào sai thì phải điều chỉnh, sửa chữa trên tinh thần hết sức cầu thị và thực tế, tôn trọng lẫn nhau, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tiến trình giải quyết biên giới được kết thúc tốt đẹp, đáp ứng lòng mong muốn xây dựng đường biên giới giữa hai nước thành đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định lâu dài, góp phần phát triển quan hệ hợp tác láng giềng tốt đẹp giữa hai nước.
Trong tình hình hiện nay, Việt Nam nên tiếp tục hợp tác cùng với Chính phủ Vương quốc Campuchia trên tinh thần thiện chí hợp tác hữu nghị, láng giềng truyền thống và đặc biệt là phải tuân thủ một cách nghiêm túc các Hiệp ước, Hiệp định đã ký kết theo đúng nguyên tắc và thủ tục pháp lý quốc tế và của mỗi nước, với tư cách là những chủ thể bình đẳng, độc lập trong quan hệ quốc tế.
Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng đại này, nhất là trong tình hình quan hệ chính trị giữa 2 nước và khu vực đang diễn biến rất phức tạp hiện nay, theo tôi nghĩ, chúng ta tập trung làm tốt hơn nữa việc cung cấp thông tin cho cán bộ, chiến sỹ đang trực tiếp thực thi nhiệm vụ và công chúng trong cả nước và bạn bè quốc tế nắm thật vững nội dung pháp lý về biên giới, lãnh thổ; về quá trình đàm phán giải quyết vấn đề biên giới đã và đang diễn ra trên tinh thần thật sự cầu thị, khoa học, khách quan, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.
Từ đó mới có thể củng cố thêm niềm tin vào sự nghiệp chính nghĩa, trong sáng của mình, và cũng từ đó mà hiểu rõ nhưng âm mưu, thủ đoạn của những phần tử dân tộc cực đoan đang tìm mọi cách, chống phá Chính phủ Vương quốc Campuchia và đặc biệt là phá hoại quan hệ láng giềng hữu nghị giữa nhân 2 nước Việt Nam - Campuchia thông qua vấn đề biên giới lãnh thổ vốn rất phức tạp, nhạy cảm.
Cụ thể là chúng ta nên kiên trì hợp tác, thông cảm và chia sẻ những khó khăn của những đồng nghiệp Campuchia đang được giao nhiệm vụ giải quyết vấn đề biên giới với Việt Nam, đừng để họ phải rơi vào hoàn cảnh khó xử, thậm chí bị vô hiệu hóa bởi những kích động của những phần tử cực đoan...
Ts Trần Công Trục
Theo giaoduc
Những dấu mốc đáng nhớ trong 20 năm bình thường hóa Việt Nam-Hoa Kỳ Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ kể từ khi bình thường hóa năm 1995 đã và đang tiếp tục phát triển, mở rộng và đi vào chiều sâu trong tất cả các lĩnh vực. Tổng Bí thư hy vọng Hoa Kỳ có hành động phù hợp về vấn đề Biển ĐôngTổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Hoa Kỳ Chuyến...