Thủ tướng Chính phủ làm rõ về lao động Việt Nam khi gia nhập TPP
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội về vấn đề lao động trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Tại Quốc hội, vấn đề lao động trong Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được các đại biểu Võ Kim Cự, Trần Ngọc Vinh, Trương Trọng Nghĩa chất vấn Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng. Sáng 18/11, trong phần trả lời chất vấn, Thủ tướng Chính phủ khẳng định, đây là vấn đề được đồng bào, cử tri cả nước, nhất là người lao động rất quan tâm.
Thúc đẩy bảo đảm quyền lợi của người lao động
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, dưới cách tiếp cận người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ trong thương mại quốc tế, nên trước hết họ phải được hưởng thành quả của quá trình này.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trả lời chất vấn tại Quốc hội sáng 18/11
Năm 1998, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã ra tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động. Đến năm 2008, tiếp tục thông qua tuyên bố về thúc đẩy việc bảo đảm quyền lợi của người lao động trong quá trình toàn cầu hóa công bằng. Đây cũng là cách tiếp cận của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và đang trở thành xu thế toàn cầu.
Nếu như vào thời điểm thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 1995 mới có 4 hiệp định thương mại tự do có nội dung về lao động, thì đến tháng 1/2015, đã có 72 hiệp định thương mại quy định về nội dung này. Việc đưa nội dung lao động vào các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới còn có mục đích bảo đảm môi trường cạnh tranh công bằng giữa các bên trong quan hệ thương mại.
Theo Thủ tướng, TPP là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, có quy định nội dung về lao động, nhưng không đưa ra tiêu chuẩn riêng mà chỉ áp dụng theo các tiêu chuẩn về lao động đã được nêu trong Tuyên bố năm 1998 về những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của ILO, thể hiện trong 8 công ước cơ bản, bao gồm các nội dung: quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người lao động và người sử dụng lao động; xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; cấm sử dụng lao động trẻ em; xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; xóa bỏ mọi hình thức phân biệt, đối xử về việc làm và nghề nghiệp.
Việt Nam là thành viên của ILO từ năm 1992. Chúng ta đã phê chuẩn 5/8 công ước cơ bản của ILO. Nhưng theo Tuyên bố năm 1998 của ILO, các nước thành viên dù đã phê chuẩn hay chưa phê chuẩn các công ước cơ bản nêu trên, đều có nghĩa vụ tôn trọng thúc đẩy và thực hiện các tiêu chuẩn lao động được đề cập trong các công ước đó.
“Như vậy, trên thực tế Việt Nam đã và đang thực hiện các quy định của ILO theo kế hoạch chủ động của mình. Những nội dung chính về lao động trong hiệp định TPP bao gồm: Đối với nội dung liên quan đến xóa bỏ lao động cưỡng bức, lao động trẻ em, phân biệt đối xử trong lao động và quy định bảo đảm điều kiện lao động về lương tối thiểu, giờ làm việc, an toàn lao động thì hệ thống pháp luật của Việt Nam đã quy định đầy đủ và cơ bản là phù hợp với các tiêu chuẩn của ILO và các cam kết trong hiệp định TPP. Chúng ta đang thực hiện và sẽ tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan đối với những nội dung này” – Thủ tướng nói.
Tổ chức đại diện của người lao động phải tuân thủ pháp luật
Thủ tướng Chính phủ khẳng định, về quyền thành lập tổ chức đại diện của người lao động: Theo hiệp định TPP và cũng phù hợp với quy định của ILO, Việt Nam và tất cả các nước tham gia hiệp định TPP phải tôn trọng và bảo đảm quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp.
Tổ chức của người lao động tại cơ sở doanh nghiệp sau khi thành lập có thể lựa gia nhập Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, hoặc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được chính thức hoạt động và sẽ chỉ được hoạt động sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận đăng ký theo quy trình minh bạch và được quy định cụ thể trong các văn bản, quy định của pháp luật.
Hiệp định TPP cũng như quy định của ILO đều khẳng định tất cả các tổ chức của người lao động phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật của nước sở tại và theo các tiêu chuẩn của ILO. Đồng thời phải hoạt động phù hợp với tôn chỉ, mục đích và phương thức hoạt động đã được đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện quyền đại diện, bảo vệ cho các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại doanh nghiệp nơi họ làm việc, thông qua các hình thức: đối thoại, thương lượng tập thể, đình công… theo quy định của pháp luật.
Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh, các tổ chức của người lao động không được phép tiến hành bất cứ hoạt động nào có khả năng xâm hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; cũng như không được tham gia bất cứ hoạt động nào ngoài tôn chỉ mục đích, điều lệ hoạt động đã được đăng ký.
Hiệp định TPP cũng có các quy định bảo vệ tổ chức của người lao động để không bị người sử dụng lao động can thiệp, phân biệt đối xử nhằm vô hiệu hóa hoặc suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền và lợi ích của người lao động.
Video đang HOT
Việt Nam có thời gian hợp lý để chuẩn bị
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết: Theo cam kết trong hiệp định TPP, chỉ riêng đối với Việt Nam có thời gian chuẩn bị 5 năm kể từ ngày hiệp định có hiệu lực, tức khoảng 7 năm kể từ khi ký hiệp định.
Thời gian chuẩn bị này để Việt Nam hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức bộ máy quản lý để bảo đảm tốt nhất quyền lợi cho người lao động. Việc đạt được khoảng thời gian thể hiện thiện chí của các bên trong đàm phán và vị thế, uy tín của Việt Nam, nhất là trong việc thực thi nghiêm túc các cam kết quốc tế.
“Sau khi hiệp định TPP được cấp có thẩm quyền phê chuẩn, đối với nội dung về lao động trong hiệp định, chúng ta sẽ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật, có thể là nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng để thực thi nội dung về lao động trong hiệp định.
Như vậy, việc thực hiện các cam kết về lao động trong hiệp định TPP cũng chính là việc tiếp tục thực hiện các quy định của ILO mà Việt Nam là thành viên và cũng không ảnh hưởng, không làm hạn chế địa vị pháp lý, vai trò, chức năng nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam” – Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh./.
Lại Thìn
Theo_VOV
Vụ án 18 phu vàng rúng động Quảng Nam: Tìm lại nhân chứng
Một nhóm phu vàng đã bị những người Cơ Tu ở xã Tà Pơơ, (Nam Giang, Quảng Nam) bắt giữ bởi bị nghi oan là đã giết 1 thầy giáo. Những phu vàng này đã bị sát hại vô cùng dã man.
LTS: Để thay đổi những tập tục lạc hậu của một số đồng bào dân tộc thiểu số, là hành trình đầy nỗ lực và gian khó, của các cấp chính quyền.
Kể lại câu chuyện rúng động ở Quảng Nam mấy chục năm về trước, để thấy ngày hôm nay, những vùng sâu, xa đã có những bước tiến dài như thế nào cả về vật chất lẫn tinh thần.
Vụ án rúng động trên đã khiến nhiều người nhớ lại một tập tục kinh hãi của người Cơ Tu trước cách mạng ở vùng đất này, tập tục "trả nợ đầu". Đến bây giờ, nhắc lại tập tục này, nhiều người từng chứng kiến vẫn còn khiếp sợ.
Đời không có hậu
Người già ở Tà Pơơ kể lại, trước chính quyền cách mạng được thành lập ở đây, những người Cơ Tu vẫn lao vào những cuộc săn máu vô cùng tàn độc. Những cuộc săn máu ấy đã lấy đi không biết bao nhiêu mạng người, đẩy nhiều làng Cơ Tu vào vòng khốn đốn.
Từ Đà Nẵng, theo Quốc lộ 14B, hướng lên Tây Nguyên, chúng tôi tìm đường về xã Tà Pơơ. Nam Giang trước đây là huyện Giằng, đường đi lại vô cùng khó khăn.
Ngày trước, khi chưa tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Đà Nẵng thì ai lên công tác tại huyện Giằng, huyện Hiên (Đông Giang và Tây Giang bây giờ) thì chẳng khác nào "đi đày". Đường lên huyện đã khó, đường vào xã còn khó gấp bội.
Ông Kriêng Diệu, Trưởng Công an xã Tà Pơơ (bên phải) kể lại vụ thảm án khiến 18 phu vàng thiệt mạng.
Con đường dẫn vào xã Tà Pơơ được mở từ năm 1986 và cũng chính bởi thảm án kinh hãi khiến 18 người bỏ mạng mà con đường phải dừng lại một thời gian.
Vụ án kinh hoàng trên khiến những công nhân làm đường sợ hãi. Họ không dám ở lại Tà Pơơ mà tức tốc trở về đồng bằng.
Tà Pơơ bây giờ đã đổi thay rất nhiều. Trung tâm xã đã có những ngôi nhà kiên cố, những ngôi nhà xây theo kiểu đồng bằng. Những ngôi nhà hình mu rùa, kiểu nhà đặc trưng của người Cơ Tu không còn nhiều nữa.
Theo thân Kriêng Diệu, Trưởng Công an xã Tà Pơơ, chúng tôi tìm đến nhà ông A Lung Tría ở thôn Vinh, người đã được chứng kiến nhiều mùa săn máu và cũng chính là "nhân vật chính" của vụ thảm sát 18 phu vàng trên.
Rất may cho chúng tôi, ông Tría vừa đi chữa bệnh ở trung tâm huyện về.
Năm nay, đã sống qua 90 mùa rẫy, ông Tría là người già nhất bản. Nước da vẫn hồng hào, cái chân vẫn bước vững chãi nhưng không biết bị bệnh gì mà nhiều ngày nay cái bụng ông đau ê ẩm, uống thuốc kiểu gì cũng không đỡ.
Bởi đau đớn, không muốn ai làm phiền, ông Tría không ở nhà chính mà một mình nằm co ro trong căn chòi bé tí tẹo ngay trước nhà với túi gạo đặt trên bụng. Ông bảo, đặt gạo lên bụng ông thấy đỡ đau hơn. Có thể đó là cách chữa bệnh của người Cơ Tu ở đất này.
Trong căn chòi chật trội, nhắc lại chuyện xưa, nét mặt ông Tría thoáng chút hãi hùng. Ông bảo, đời ông lắm nỗi thăng trầm và cuối đời thì không được đẹp giống như bộ phim trên ti vi không có cái kết ngọt ngào.
Nỗi thăng trầm nhiều bi kịch ấy khởi nguồi từ tập tục "trả nợ đầu" đầy kinh hãi.
Ở Tà Pơơ hiếm gia đình nào lại danh giá như gia đình ông thuở trước. Ông Tría theo cách mạng từ sớm. Ông làm liên lạc, rồi làm dân quân, đến năm 1960 đã làm phó bí thư xã.
Sau giải phóng, ông làm bí thư xã và đến khi vụ thảm án kinh hoàng trên xảy ra thì ông vừa rời cương vị Phó Chủ tịch MTTQ huyện Giằng (Nam Giang bây giờ) để nghỉ hưu được vài tháng.
Như những đồng bào Cơ Tu khác, ông Tría có nhiều con. Tuy 9 lần sinh nở nhưng đến giờ ông Tría chỉ còn một người con duy nhất. Ông bảo, thần linh không ưng cái bụng, không thương nên không muốn các con ông ở với ông nên lần lượt tìm đến bắt đi.
Có lẽ, cũng bởi nỗi sợ hãi mơ hồ ấy mà khi người con trai thứ ba, niềm hy vọng của cả gia đình là anh A Lung Nờ, khi đó đang làm giáo viên bị sát hại dã man đã khiến ông đi đến quyết định "đòi nợ đầu" mà đến giờ ông vẫn còn dày vò, ân hận.
Đòi nợ đầu, hủ tục tàn độc
Ông Tría kể, khi cách mạng chưa về, người Cơ Tu ở dưới những tán rừng Trường Sơn này như sống trong hoang dã. Cai trị, thực dân Pháp cũng đặt đồn bốt ở đất này.
Người Cơ Tu khi ấy sống khép kín, lương thực thực phẩm chủ yếu là do săn bắn và làm rẫy. Thỉnh thoảng các lái buôn người dưới đồng bằng ngược sông Bung lên mang theo muối, dầu, công cụ sản xuất, vũ khí để đổi lấy thóc, da thịt thú rừng.
Cạnh các bản làng của người Cơ Tu có người Ve, người Giẻ Triêng. Bởi chưa có chính quyền nên ngay cả các bản làng của người Cơ Tu cũng không đoàn kết như bây giờ. Mỗi làng là một thế giới riêng, một "chiến lũy" riêng và dường như là bất khả xâm phạm.
Ông Tría bảo, nguyên nhân của sự cô lập ấy chính là hệ quả tàn khốc của hủ tục "trả nợ đầu". Theo ông Tría, quan niệm lạc hậu của người Cơ Tu, máu như một sợi dây liên kết giữa người với thần linh.
Muốn thần linh chứng giám, muốn mùa màng tốt tươi, muốn tai ương bị đẩy lùi thì phải dùng máu để tế thần. Bởi vậy, cứ khi dân làng gặp biến cố hay trước những quyết định lớn lao, người Cơ Tu lại lên đường săn máu.
Hủ tục tàn độc này khiến nhiều bản làng ở đây có những những mối thù truyền kiếp. Người làng này "lấy đầu người" của người làng kia và ngược lại.
Ông Tría bảo, khi trong làng có người bị giết hại, bị lấy đầu thì kiểu gì cũng phải trả thù.Quan niệm dã man, vô pháp luật ấy đã đem đến những hậu quả khôn lường.
Vụ án tàn độc
Vào khoảng năm 1944 - 1945, những "giặc mùa" ở một bản làng thuộc xã Đắk Ring, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum, đã gây ra một thảm án kinh hoàng.
Ông Tría kể, ngày đó, người dân bản làng ông cũng như nhiều bản làng khác có giao thương với những người ở Đắk Ring. Những người ở bản làng ấy thường mang những miếng đá đánh lửa sang các bản làng bên này bán.
Một lần đến làng ông, những người bán đá lửa đó đã được dân làng ông dặn rằng chuyến sau phải mang nhiều hàng hơn nữa, mang bao nhiêu sẽ mua hết bấy nhiêu.
Nhớ lời dặn ấy, mấy tháng sau những thương lái đó đã gùi rất nhiều đá đánh lửa tới. Tuy nhiên, dân làng ông lại khước từ, không mua hết.
"Không biết có phải do tức tối vì không bán được hết đá hay vì lý do nợ máu trước đây mà họ đã giết người vô cùng tàn ác", ông Tría nhớ lại. Theo ông Tría thì không chỉ có những người buôn đá ấy mà cả những người trong làng đó đã tìm đến làng ông truy sát.
Ông Tría bảo, vụ án đó đã khiến hơn 30 người làng ông và mấy làng lân cận thiệt mạng. Và, cũng bởi sợ hãi trước sự tàn ác của giặc mùa mà nhiều bản làng đã phải tứ tán, vào rừng hoang sống đời ẩn dật.
Ông Tría kể, sau vụ thảm sát kinh hãi trên, nhiều cán bộ ở dưới xuôi đã có mặt tại địa phương để khuyên giải đồng bào. Họ đã nhiều lần qua lại để vận động mọi người quên đi mối "nợ máu" đó để cùng chung sống trong hòa bình, đoàn kết.
"Cán bộ nói nhiều ngày lắm, nhưng nhiều người cũng không chịu nghe đâu. Họ bảo, làm khác đi không được", ông Tría nhớ lại.
Theo ông Tría, nhờ sự kiên trì vận động của cán bộ, rồi dân làng bên kia phải nộp phạt nhiều con trâu, nhiều lợn, nhiều dê để các làng cúng Giàng, cúng thần linh thì mối thù ấy mới tạm thời nguôi lắng.
"Sau này, dân làng theo cách mạng rồi, có cán bộ dưới xuôi lên rồi thì những mùa săn máu trên không còn nữa. Người Cơ Tu đã không còn lấy máu người để tế lễ thần linh nữa. Cần thần linh phù trợ thì chỉ làm lễ đâm trâu thôi", ông Tría trầm ngâm.
Theo cách mạng, ông Tría là một trong những cán bộ cốt cán của người Cơ Tu ở vùng đất này. Bởi được giác ngộ nên ông cũng là người đi tiên phong trong việc cùng dân làng xóa bỏ những tập tục lạc hậu, trong đó có tục "trả nợ đầu" kinh hãi.
Tuy nhiên, tất thảy những thứ tốt đẹp đó đã bị hắt xuống con sông Bung ngầu đỏ bởi một vụ trọng án kinh hoàng mà chính ông là người trong cuộc.
Theo Trí thức trẻ
Việt Nam lên án các vụ tấn công khủng bố tại Paris, Pháp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã gửi điện chia buồn và thăm hỏi tới Tổng thống Pháp Francois Hollande; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gửi điện chia buồn và thăm hỏi tới Thủ tướng Pháp Manuel Valls. Ngày 14/11, trả lời câu hỏi của nhiều phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước những vụ tấn công tại...