Thoái vốn nhà nước: những nhận thức cần thiết
Thủ tướng Chính phủ mới đây đã đề nghị các bộ ngành đẩy nhanh quá trình thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp lớn, trong đó có Sabeco, Habeco, Vinamilk. Chủ trương thoái vốn tại những doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã cổ phần hóa đã được đề cập từ cách đây gần thập kỷ, nhưng rồi vì nhiều lý do đã diễn ra hết sức chậm chạp.
Chậm bởi lý do chủ quan là chính
Chẳng hạn như với Sabeco, một quan chức hữu trách của Bộ Công Thương mới cách đây không lâu cho biết Sabeco là tài sản quốc gia, giá trị hàng mấy tỉ đô la, là thương hiệu lớn, nên việc bán và giữ thương hiệu, bán ra sao, bán cho ai, bán như thế nào là bài toán của Chính phủ chứ không phải Bộ Công Thương, mặc dù bộ này đã nhiều lần làm công văn xin cổ phần hóa, thoái vốn tại Sabeco.
Chuyện thoái vốn nhà nước tại Vinamilk đã được đề cập nhiều lần nhưng đến nay vẫn chưa có tiến triển.
Trong khi đó, trước đề xuất của Hiệp hội Tài chính về bán dứt điểm vốn nhà nước ở Sabeco theo hình thức đấu giá một lần công khai trên sàn giao dịch chứng khoán, vị này đã thẳng thừng bác bỏ, thậm chí còn cho là đề xuất vụ lợi, với lý do là Chính phủ sẽ không đồng ý vì, đại ý, bán như vậy thì không biết người mua là ai, có cam kết giữ thương hiệu, phát triển công ty lên có lợi cho đất nước hay không.
Không bàn đến đề xuất bán dứt điểm vốn nhà nước theo hình thức đấu giá một lần công khai trên sàn có mang động cơ vụ lợi hay không, nhưng giải thích như trên của vị quan chức ở Bộ Công Thương đã làm không ít người hoài nghi tính bất vụ lợi đằng sau nó. Bởi Bộ Công Thương là cơ quan chủ quản, là người đại diện phần vốn nhà nước tại Sabeco và được Chính phủ giao nhiệm vụ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại Sabeco, nên nếu họ trình ra được các phương án thoái vốn hợp lý thì không có lý gì Chính phủ lại bác các đề xuất này của họ. Vấn đề là họ có (muốn) đề xuất các phương án thoái vốn hợp lý hay không mà thôi, và nói như thế này thì quả bóng trách nhiệm đã được Bộ Công Thương đá ngược lại cho Chính phủ.
Tại phiên họp mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã nói rõ tinh thần bán vốn nhà nước tại các doanh nghiệp này là phải công khai, minh bạch, đưa lên sàn chứng khoán, đấu giá quốc tế trong nước, công khai cả nhà đầu tư để chống tiêu cực, lợi ích nhóm, bảo toàn tối đa tài sản nhà nước. Điều này chứng tỏ việc bán vốn nhà nước trên sàn chứng khoán đã được Chính phủ nhận thức rõ là điều cần thiết.
Vì vậy, sự chậm trễ trong thoái vốn nhà nước có lý do phần lớn là do sự thiếu trách nhiệm của các cơ quan chủ quản, và lý do này cần được giải quyết cho những đợt thoái vốn tiếp theo trong tương lai.
“Thị trường không thuận lợi” chỉ là lý do thứ yếu
Một lý do nữa vẫn thường được đưa ra để biện minh cho sự chậm trễ trong việc niêm yết và bán vốn nhà nước tại các DNNN đã được cổ phần hóa là do thị trường không thuận lợi, ví dụ như do khủng hoảng kinh tế thế giới, hay sự e ngại là nếu thoái vốn dồn dập thì thị trường sẽ “bội thực”, không hấp thu được hết nên sẽ ảnh hưởng đến giá bán….
Video đang HOT
hực ra, nếu cứ lo ngại (kể cả một cách thực tâm) rằng điều kiện hiện thời của thị trường không thuận lợi nên cần trì hoãn niêm yết và thoái vốn nhà nước thì việc trì hoãn này có khả năng sẽ là trì hoãn mãi mãi. Vì không ai có thể nói chắc được rằng điều kiện thị trường năm sau sẽ tốt hơn năm nay nên hãy đợi đến năm sau để niêm yết và thoái vốn. Các điều kiện của nền kinh tế trong nước và thế giới luôn biến động với nhiều biến cố bất ngờ, không thể lường trước được. Vì thế, cần chủ động lập kế hoạch theo các kịch bản khác nhau và tiến hành niêm yết, thoái vốn theo những kịch bản này để vừa đạt được mục tiêu chính đặt ra là giảm bớt sự dính líu, chi phối của Nhà nước trong hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tăng thu cho ngân sách, đồng thời đối phó hữu hiệu với các điều kiện bất lợi của thị trường tại thời điểm niêm yết, thoái vốn.
Cần tránh nguy cơ là tiền thu được từ việc thoái vốn này lại chui vào các”lỗ đen” tức là tiếp tục được rót cho những dự án, doanh nghiệp”đắp chiếu” hay những dự án mới được “vẽ” ra để tiêu tiền ngân sách.
Về việc e ngại thị trường “bội thực”, lý do này cũng đã rất phổ biến trước đây trong những năm cuối của thập kỷ trước và cuối cùng một loạt doanh nghiệp đã trì hoãn niêm yết, thoái vốn. Thực ra, nếu là “hàng” tốt, thì luôn có những dòng vốn khổng lồ trong và ngoài nước săn tìm, không bao giờ lo “ế” hay không tìm được người mua (với giá tốt). Còn nếu đã là “hàng” xấu, không hấp dẫn thì đúng là có bán rẻ cũng sẽ khó tìm được người mua.
Nhưng với những loại “hàng” xấu này thì Nhà nước càng phải tích cực và chủ động buông bỏ cho nhanh, kể cả bán với giá0 đồng vì càng nắm giữ thì Nhà nước càng phải chịu thêm tổn thất và tốn kém. Ví dụ, vẫn phải tiếp tục rót vốn cho doanh nghiệp với tư cách là cổ đông chính, trong khi năng lực và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp không có cải thiện gì sau cổ phần hóa do chúng vẫn hầu như là một DNNN với Nhà nước nắm giữ đại bộ phận cổ phần.
Nói cách khác, cần tích cực đẩy mạnh cổ phần hóa và có kế hoạch chủ động niêm yết và thoái vốn nhà nước tại các DNNN được cổ phần hóa càng sớm càng tốt.
Cũng phải nhanh chóng niêm yết và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp không hiệu quả.
Hiện tại, sự chú trọng về niêm yết và thoái vốn mới chỉ diễn ra ở những doanh nghiệp lớn. Tình hình niêm yết và thoái vốn tại các doanh nghiệp nhỏ và những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, thua lỗ hoặc “đắp chiếu” hầu như rất yên ắng, không có mấy thông tin cập nhật. Lý do có thể do các doanh nghiệp này nhỏ nên dù có thoái vốn thì cũng không mang lại cho ngân sách một khoản thu đáng kể, hoặc các cơ quan hữu trách đang phải bận tâm với vấn đề có tiếp tục cứu trợ các doanh nghiệp thua lỗ này nữa hay không trước khi niêm yết hay thoái vốn.
Nhưng như trên đã nói, việc miêm yết, thoái vốn các doanh nghiệp sau cổ phần hóa không chỉ mang thêm đến một nguồn thu bổ sung cho ngân sách mà còn làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, giảm nguy cơ tổn thất cho ngân sách khi vẫn phải rót thêm vốn hay tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp hoạt động mặc dù, về danh nghĩa, các doanh nghiệp này đã trở thành doanh nghiệp phi nhà nước (tư nhân) sau cổ phần hóa.
Bởi vậy, không chỉ với những doanh nghiệp (nhỏ) vẫn đang hoạt động hiệu quả, ngay cả những doanh nghiệp lớn hơn nhưng đang thua lỗ, đắp chiếu thì cũng cần chủ động thoái toàn bộ vốn tại các doanh nghiệp này càng nhanh càng tốt, kể cả có bán với giá0 đồng hay tiến hành làm thủ tục đóng cửa, phá sản để chấm dứt sự liên đới của Nhà nước vào những “lỗ đen” tiêu tốn ngân sách này.
Mục đích thoái vốn cần được nêu rõ
Cuối cùng, như trên đã đề cập, ngoài mục đích cải thiện hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa, một trong những mục đích chính của thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đương nhiên là để bổ sung nguồn thu cho ngân sách. Nhưng như thế cũng chưa đủ, vì việc thoái vốn có mục đích tối thượng là nhằm giảm thiểu sự dính líu của Nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trực tiếp, nhường việc này cho các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài.
Từ giác độ đó, cần tránh nguy cơ rõ ràng là tiền thu được từ việc thoái vốn này lại tiếp tục được rót cho những dự án, doanh nghiệp “đắp chiếu” hay những dự án mới của các DNNN hay Nhà nước làm chủ, trong số đó có nhiều cái được “vẽ” ra để tiêu tốn ngân sách.
Theo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Khi gánh nặng ngân sách ngày càng tăng
Không thể ép mãi các nguồn thu để ngân sách đạt và vượt chỉ tiêu trong khi lại nương tay với tình trạng vung tay quá trán, bóc ngắn cắn dài trong việc chi tiêu ngân sách phổ biến khắp các bộ, ngành và địa phương.
Thu nhiều
Gần đây một lãnh đạo đã nghỉ hưu của Bộ Tài chính đã trải lòng với những người trong ngành: "Chúng ta cứ mải miết thu thuế, lo lắng sao cho đạt và vượt chỉ tiêu ngân sách. Nhưng nhìn cách chi tiêu vung lên, hiệu quả đầu tư kém cỏi, tôi cảm thấy thương cảm cho ngành thuế, cho doanh nghiệp", ông nói.
Đường sắt Cát Linh - Hà Đông được điểm mặt là một trong những dự án thi công chậm chạp, chi phí xây dựng đội lên Cao.
Lời tâm sự trong nội bộ của vị cựu lãnh đạo được nhiều người trong ngành kể lại phản ánh một thực trạng đã trải qua nhiều đời Bộ trưởng Tài chính: thu ngân sách nhà nước năm nào cũng vượt gần 10% so với dự toán Quốc hội giao, nhưng bội chi ngày càng lớn. Nó phản ánh, một mặt, người dân và doanh nghiệp đang đóng thuế và phí "cao nhất khu vực", theo một báo cáo năm 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội; và mặt khác tình trạng chi tiêu công không được kiểm soát tốt, hiệu quả đầu tư kém.
Đương nhiên, ở góc độ quản lý tay hòm chìa khóa quốc gia, Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng luôn phải chịu sức ép tăng thu. "Tôi đã nói rõ, ông nào thỏa hiệp với địa phương tôi sẽ kỷ luật", Bộ trưởng nhắc lại nguyên tắc điều hành về giao ngân sách cho các địa phương trong cuộc làm việc gần đây với Tổ công tác của Thủ tướng.
Thực tế là ông đã chỉ đạo 13 địa phương tăng thu thêm 23.800 tỉ đồng trong nửa cuối năm nay để điều tiết về ngân sách trung ương. Thực hiện chỉ đạo này, Tổng cục Thuế đã triển khai quyết liệt các giải pháp quản lý thu, tăng cường chống thất thu thuế, thu hồi nợ đọng, kiểm soát chặt chẽ hoàn thuế giá trị gia tăng đến nhiều địa phương cả nước.
Ở khía cạnh chi tiêu, cơn khát tiêu tiền ngân sách
dường như không thể thỏa mãn.
Sức ép này đang đè nặng lên không ít địa phương. Chẳng hạn, Cần Thơ vừa được giao tăng thu so với dự toán 565 tỉ đồng trong năm nay, tương đương với số thu của gần một tháng. Năm 2016, tỉnh này được giao thu nội địa 7.535 tỉ đồng, tăng 5,8% so với số thu thực tế năm 2015, nếu cộng cả chỉ tiêu vừa được giao thêm thì thu nội địa ở Cần Thơ phải đạt 8.100 tỉ đồng. Theo tính toán của ông Võ Kim Hoàng, Cục trưởng Cục Thuế thành phố Cần Thơ, với chỉ tiêu mới này, tốc độ tăng thu của Cần Thơ trong năm nay phải tăng tới 15%, cao hơn nhiều so với khoảng 10-12% các năm trước đây.
Năm 2015, trên địa bàn Cần Thơ có khoảng 6.500 doanh nghiệp hoạt động thì có 348 đơn vị không phát sinh doanh số, trên 1.082 doanh nghiệp bị lỗ. Trong sáu tháng đầu năm nay có thêm 550 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tương đương với số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, giải thể, đóng cửa, phá sản do hoạt động sản xuất, kinh doanh gặp khó khăn. "Nhiệm vụ tăng thu năm 2016 quả là vô cùng khó khăn với chúng tôi", ông Hoàng nói trong một cuộc làm việc với phóng viên gần đây. Tuy nhiên, ông khẳng định "sẽ hoàn thành nhiệm vụ".
Trong khi đó, ông Nguyễn Quốc Cường, Cục trưởng Cục Thuế Kiên Giang, cũng đang chịu nhiều sức ép bởi nhiệm vụ thu. Kiên Giang năm nay bị hạn hán, xâm nhập mặn rất nặng. Nhiều doanh nghiệp thủy sản chỉ hoạt động cầm cự, người nuôi trồng khó khăn, và lần đầu tiên trong rất nhiều năm qua ngành nông nghiệp tăng trưởng âm, tác động tới 70% dân số của Kiên Giang. "Công tác thu của chúng tôi vì thế bị ảnh hưởng lớn", ông Cường than thở.
Là một trong 10 tỉnh của cả nước đạt kết quả thu tốt nhất, nhưng ông Cường khẳng định, rất khó để đạt tỷ lệ nợ tối đa 5% - mức mà Bộ Tài chính yêu cầu. Ông giải thích: "Rất nhiều lý do khách quan, trong đó chủ yếu là do các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là trong lĩnh vực chế biến, xuất khẩu thủy sản. Tăng thu từ khu vực này là khó. Hơn nữa, cưỡng chế tài sản cũng không được vì tài sản đã được thế chấp ngân hàng. Mà cũng không thể cưỡng chế được vì còn phải tạo điều kiện cho họ sống".
Chi tiêu quá đà
Ở khía cạnh chi tiêu, cơn khát tiêu tiền ngân sách dường như không thể thỏa mãn. Giải trình với Ủy ban Thường vụ Quốc hội hồi trung tuần tháng 6 vừa rồi, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, bội chi ngân sách nhà nước so với GDP thực hiện năm 2014 là 5,69%. Tuy nhiên, con số này đã tăng lên tới 6,33% trong báo cáo kiểm toán công bố cuối tháng 8 vừa qua. Đây là đà chi tiêu không kiểm soát được nếu tính đến tỷ lệ bội chi đã lên tới 6,6% GDP năm 2013 trước đó, cao hơn nhiều lần so với chỉ tiêu 5% GDP mà Quốc hội cho phép. Năm 2015, bội chi ước tính là 5,7% GDP.
Vậy mà, trong một nghị quyết của Chính phủ tuần trước, các bộ lại được Chính phủ phê duyệt cho đầu tư tới 21 chương trình mục tiêu với tổng trị giá lên tới gần 900.000 tỉ đồng trong vòng năm năm tới. Đây là số tiền rất lớn, tương đương với thu ngân sách nhà nước trong một năm. Điều đáng nói là chỉ chưa tới một năm trước, trong nỗ lực cắt giảm các nguồn chi, Quốc hội đã cắt giảm còn hai chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2016-2020 từ 16 chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn năm năm trước do lo ngại lãng phí và vượt quá năng lực tài chính quốc gia.
Trong báo cáo công bố tháng 8 vừa qua, Kiểm toán Nhà nước than phiền rằng, đến tháng 3-2016 mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn không có báo cáo về số nợ đọng xây dựng cơ bản cho năm 2015. Con số này trong báo cáo của Kiểm toán Nhà nước lên tới 57.100 tỉ đồng tính đến cuối năm 2014. Tuy nhiên, theo báo cáo của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, tính đến hết năm 2014 tổng số nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách khoảng 46.000 tỉ đồng và tổng số vốn ứng trước chưa bố trí nguồn thu hồi là 62.200 tỉ đồng, cao hơn nhiều so với báo cáo của Kiểm toán Nhà nước. Số nợ đọng lên tới 108.200 tỉ đồng đặt ra câu hỏi nghi ngờ về hiệu lực của Luật Đầu tư công.
Theo Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội, một số công trình đầu tư hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng hiệu quả còn thấp hoặc không thể đưa vào sử dụng. Tình trạng sai phạm trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước xảy ra trong hầu hết các khâu của quá trình đầu tư chưa có giải pháp khắc phục hữu hiệu, gây thất thoát, lãng phí. Cơ quan của Quốc hội điểm mặt các dự án sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước lãng phí, hiệu quả kém như: đường sắt cao tốc Cát Linh - Hà Đông thi công chậm chạp, chi phí xây dựng đội lên cao; Bảo tàng Hà Nội qua gần năm năm đi vào hoạt động hiệu quả sử dụng rất thấp; dự án mở rộng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 trên 8.000 tỉ đồng vẫn "đắp chiếu" sau gần 10 năm thực hiện; ký túc xá sinh viên tại Hà Nội và một số tỉnh thành không có sinh viên sử dụng.
Mới điểm qua sơ bộ bề chi đầu tư phát triển đã có hàng loạt vấn đề. Đó là chưa kể đến lãng phí ở các doanh nghiệp nhà nước, và đặc biệt là chi thường xuyên đã lên tới hơn 70% chi ngân sách để nuôi bộ máy cồng kềnh, đầy gánh nặng.
Theo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Vì sao phớt lờ "lệnh" Chính phủ? Trong tổng số hơn 400 doanh nghiệp phải công bố thông tin, chỉ có ba doanh nghiệp thực hiện đầy đủ. Hầu hết các "ông lớn" tập đoàn, tổng công ty không có bất kỳ thông tin nào về hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định của Chính phủ. Nghị định 81 ra đời nhằm minh bạch hóa, tăng cường hiệu...