Thiên tình sử của “người Vĩ Dạ” phá bỏ luật tục giữa đại ngàn Trường Sơn
Giữa đại ngàn Trường Sơn xanh thẳm và cao vợi, anh là người Kinh đầu tiên dám kết hôn với một người phụ nữ Ma Coong – một dân tộc mà sự lạc hậu chỉ “xếp sau” với dân tộc Arem. Cũng vì nghĩa cử này, anh trở thành người đầu tiên và duy nhất phá bỏ được một hủ tục hết sức man rợ – tục chôn sống trẻ con theo mẹ, đem đến cho nhiều trẻ nhỏ Ma Coong nơi đây sự hồi sinh thành người.
Quặn lòng một tập tục
Trên địa bàn xã Thượng Trạch ( Bố Trạch, Quảng Bình) là người thiểu số, sống ở nơi hưu quạnh, vùng khí hậu khắc nghiệt, có ít giao lưu giữa 2 nước Việt – Lào nên ngày trước đồng bào Ma Coong nơi đây đã phát sinh nhiều hủ tục. Ngoài các hủ tục như ở Sụ (ở rể), hút thuốc… thì có một hủ tục đến nay nếu được nghe kể lại ai lấy đều phải kinh hãi đó là hủ tục chôn sống trẻ theo mẹ.
Hủ tục này được thực thi khi một người phụ nữ xấu số nào đó lìa giã cõi đời, nếu con họ sinh ra chưa đầy 3 tháng tuổi thì phải chôn sống cùng mẹ. Lệ tục là lệ tục, bất biết có một sự can thiệp nào, bất biết gia đình người ta có đồng ý hay không thì đứa trẻ đó bắt buộc phải chung giáo đã từng lên đây dậy học, nhiều cán bộ cắm bản thuở xưa mà tôi đã từng tiếp xúc để tìm hiểu lệ tục vẫn còn “xanh mặt” khi kể chuyện này. Có người bảo, cả đời họ, chiến tranh, đói khổ, dịch bệnh có thể quên nhưng họ không thể quên được tiếng đau xé lòng của những đứa trẻ vọng lên khi bị những xẻng đất, những nhát cuốc nơi mộ huyệt vùi lấp.
Vợ chồng anh Diệu cùng đứa con nuôi và thiếu ta Hoàng Minh Đức – Cán bộ biên phòng cắm bản
Lý giải về sự phát sinh của tập tục này có nhiều căn cứ. Theo lý giải của ông Đinh Hợp, một người Ma Coong chính gốc hiện đang làm chủ tịch xã, thì ngày xưa người Ma Coong chôn trẻ theo mẹ là do cuộc sống khó khăn quá. Đứa trẻ Ma Coong sinh ra, lớn lên chỉ nhờ nguồn sữa từ cơ thể người mẹ. Đường, sữa, bột lúc đó không có, người ta cũng chưa biết nuôi bộ trẻ nhỏ, trước sau gì thì đứa bé ấy cũng sẽ chết do đói ăn. Đằng nào cũng là một lần đau, tốt nhất là chôn nó theo để cho “mẹ con có nhau”.
Video đang HOT
Vì tập tục này, những năm trước, đã có rất nhiều những đứa trẻ bị chôn sống theo kiểu này. Đi khắp 18 thôn bản của người Ma Coong ngày nay, người ta không thể thống kê được có bao nhiêu rừng mộ như vậy. Và người càng không thể thống kê được những ngôi mộ có những đứa trẻ bị chôn theo hủ tục này. Đau xót và thảm thương vô cùng.
Người hồi sinh cho trẻ
Giữa những năm âm u của hủ tục, giữa nỗi đau gào thét của đại ngàn, anh Nguyễn Xuân Diệu đã có mặt. Anh Diệu sinh năm 1962, anh quê gốc tại thôn Vĩ Dạ (nay là Phường Vĩ Dạ), Hưng Phú, tỉnh Thừa Thiên Huế. Do quê nhà đói kém, năm 1990, theo cánh bạn, anh Diệu đã tìm lên mảnh đất có người Ma Coong này để kiếm sống tại khu vực Đồn biên phòng 593. Nghề nghiệp của anh lúc này là kết hợp với Đồn buôn bán, tiêu thụ nông lâm sản cho bà con. Trong quá trình giao thương đi lại, tiếp xúc với người Ma Coong anh cũng đã từng chứng kiến hủ tục chôn sống trẻ. Đau xót, anh để tâm và quyết định tìm cách để xóa bỏ hủ tục, cứu sống cho được những đứa trẻ vô tội.
Nhiều đêm mất ngủ anh nghĩ cách. Nhưng như đã nói ở trên, việc thức tỉnh suy nghĩ với người dân Ma Coong lúc này thật khó. Ngay người Ma Coong của họ thôi, ai có ý định này đã bị thôn bản, bà con loại trừ khỏi cuộc sống chứ nói chi đến anh, một người Kinh ở mạn dưới di lên.
Để có tiếng nói, để có ý định, chỉ còn cách duy nhất là anh phải trở thành người Ma Coong. Rỗi lúc nào là anh tìm đến những thôn bản có người Ma Coong để chuyện trò học tiếng. Trong thời gian đi lại ở bản Cà Ròong 1, anh có quen và để ý đến một thân phận, đấy là cô Y Nhoong. Y Nhoong vốn là cô gái thùy mị, nết na nhất bản Cà Roòng 1 nhưng đường tình duyên lại trắc trở. Cô lấy chồng, sinh được 2 con, nhưng do chồng rượu chè quá nên tình duyên đứt gánh. Cô ở vậy nuôi con. Cám cảnh với thân phận cô, chàng thanh niên Nguyễn Xuân Diệu lúc có việc tạt qua thường đến động viên và giúp đỡ. Hai người coi nhau như anh em.
Ơn nghĩa nhất của người phụ nữ Ma Coong này với anh Diệu ấy là năm 1987. Do lăn lộn ở miền sơn thẳm, như bất cứ người Kinh nào lên đây anh cũng bị sốt rét. Mùa hè năm này, cơn sốt rét ác tính đã đến cùng anh. Anh được đưa đến trạm xá của đồn biên phòng, nhưng do cơ thể suy nhược nên các y tá ở đây đã bó tay, anh cầm chắc cái chết. Tin dữ của anh theo gót chân trần của người Ma Coong đã về đến bản. Nghe tin, không nề hà Y Nhoong đã cùng cha đẻ tất tưởi tìm lên. Bằng những bó lá thuốc cổ truyền lấy từ sơn thẳm cùng sự chăm sóc của Y Nhoong và cha cô, lạ thay anh đã hồi tỉnh.
Nhờ sự cứu mạng này, để trả ơn anh đã nhận ông Đinh Keo làm bố nuôi và quyết định lấy Y Nhoong làm vợ. Lấy Y Nhoong anh vừa trả được ơn, vừa có điều kiện giúp cô, vừa trở thành người Ma Coong để tuyên chiến với hủ tục chôn sống trẻ. Sau khi lấy Y Nhoong, 7 năm sau, ấy là năm 1994, trong bản Cà Roòng 1 có đứa trẻ xấu số, là con của Y Soang, một người đàn bà điên trong xã. Do bệnh tật, vệ sinh và ăn ở kém nên Y Soang đã chết ngay sau khi đứa con chào đời.
Theo lệ tục, đứa trẻ này sẽ bị chôn sống cùng mẹ. Không nề hà, anh Diệu đã cùng vợ tìm đến. Anh lên tiếng can thiệp và đã gặp ngay những sự phản ứng quyết liệt của dân bản. Không chịu bó tay, sau một ngày trời thương thuyết, anh đã được người Ma Coong ở Cà Roòng 1 cho nhận làm con nuôi cùng một “cam kết” đi cùng: Anh sẽ phải chịu phạt vạ, chịu mọi hiện vật để cúng Giàng nếu như có điều xấu xẩy ra hay để cho đứa trẻ chết. Đứa trẻ con Y Soang sinh thiếu tháng, trông như một con khỉ con. Nhận về anh cũng hết sức lo toan. Nghe tin anh là người đầu tiên thương thuyết được và cứu đứa trẻ không bị chôn sống cùng mẹ nên lính cũng như chỉ huy đồn biên phòng đóng trên địa bàn đã cử người xuống hỗ trợ. Sữa, đường theo chế độ ốm đau của lính đồn đã được anh em nhất trí dồn lại gùi xuống để anh nuôi đứa trẻ. Sau 3 tháng, bằng nguồn sữa, đường của lính biên phòng, bằng sự tân tâm chăm sóc của vợ chồng anh, bằng những thìa nước cơm được chắt ra trong mỗi bữa, thằng bé đã kháu khỉnh, đã qua được những nguy kiệt suy dinh dưỡng ban đầu.
Lễ đặt tên được anh và người vợ Y Nhoong tổ chức, có rượu mời khắp dân bản. Người Ma Coong rầm rập kéo đến, uống rượu để chứng kiến một đứa trẻ được coi là “con của ma” lần đầu tiên thành người mà xóm làng không gặp tai họa gì. Đứa trẻ sống được là nhờ đường, sữa của lính biên phòng, ơn nghĩa nên anh Diệu và người vợ Y Nhoong đã quyết định đặt tên cháu là Đường – Nguyễn Xuân Đường.
Đường là thằng bé người Ma Coong đầu tiên có họ người Kinh ở đất này, hiện em đang học lớp 9 và năm nào cũng đạt học sinh chuyên cần. Là người Kinh đầu tiên lấy vợ Ma Coong, là người đầu tiên dám dấn thân, tuyên chiến và xóa bỏ đi một hủ tục khủng khiếp nên giờ đây với nhiều đứa trẻ Ma Coong Nguyễn Xuân Diệu trở thành ân nhân. Nói về vai trò của anh Diệu, ông Quách Văn Tâm, Bí thư Đảng ủy xã tâm sự: Nếu không có sự hy sinh cao cả như anh Trần Xuân Diệu, hết lòng vì dân, vì trẻ Ma Coong thì không biết đến bao giờ hủ tục chôn trẻ theo mẹ sẽ được loại bỏ trên đất này. Nhờ anh Diệu mà nhiều đứa trẻ đã được cứu sống, lớn lên thành người.
ĐƠN THƯƠNG
Theo ĐSPL
Gia đình liệt sĩ, 20 năm sống trong kì thị
Hơn 20 năm qua, gia đình ông Dương ức Dịch và bà Ngô Thị Hà, ở thôn Rẫy, Tây Trạch, Bố Trạch (Quảng Bình) phải sống trong sự kì thị và xa lánh của hàng xóm láng giềng khi bị đổ oan là "ma thuốc độc".
Theo ông Dịch sự việc xảy ra cách đây 20 năm. "Khoảng năm 1998, trong thôn Rẫy có một người đàn ông bị bệnh nặng. Sau khi áp dụng cách chữa bệnh của thầy bói ít lâu người đàn ông này qua đời. Bà Thìu vốn một người thân quen của gia đình tôi, đi rao khắp làng rằng anh trai bà chết là do bị gia đình tôi bỏ thuốc độc" - ông Dịch nhớ lại.
Lời đồn lan truyền ra khắp thôn, khắp xã rồi tới cả dưới thị trấn. Gia đình ông Dịch ngày càng bị mọi người xa lánh. Ai cũng sợ tiếp xúc với các thành viên trong gia đình ông vì sợ bị bỏ thuốc độc. Cứ nghĩ mọi người chỉ hiểu nhầm ít bữa rồi thôi, nhưng không ngờ chính những lời đồn đoán đó đã hành hạ gia đình ông Dịch hơn 20 năm.
Bà Hà nói: "Chúng tôi đã nhiều lần viết đơn cầu cứu chính quyền thôn và xã nhưng đâu lại
vào đấy".
Sau khi vu oan cho gia đình ông bà Dịch - Hà, bà Thìu cũng đã nhận sai và xin lỗi kín đáo đối với gia đình ông bà. "Nhưng chính vì không công khai xin lỗi mà người dân địa phương vẫn đồn đại âm ỉ và nghĩ gia đình tôi là "ma thuốc độc". Gia đình tôi sống khổ sở hơn 20 năm qua" - bà Hà chua xót nói.
Tin đồn cay nghiệt khiến cho gia đình ông Dịch, bà Hà bị mọi người cô lập. Con cái đi học cũng bị bạn bè dị nghị, xa lánh. Ngày 25/5/2018 bà Hà tiếp tục làm đơn cầu cứu xã. Chính quyền xã Tây Trạch chuyển về ban mặt trận thôn để giải quyết. Trưởng thôn Rẫy, ông Lê Văn Dị tổ chức họp với đầy đủ ban bệ của thôn và những người liên quan. Tuy nhiên theo bà Hà, khi cả hai ông bà có ý kiến thì trưởng thôn không cho nói.
Gia đình ông Dịch bà Hà là gia đình ba đời có công với đất nước. Ông Dương Đức Dịch và bà Ngô Thị Hà từng tham gia kháng chiến chống Mỹ, cha ông Dịch là chiến sỹ hi sinh thời kháng chiến chống Pháp, con trai Dương Đức Danh hiện đang là chiến sỹ đóng quân trên đảo Phan Vinh (quần đảo Trường Sa).
Ông Dương Văn Khánh, Chủ tịch UBND xã Tây Trạch cho biết: "Chúng tôi đã tiếp nhận đơn của bà Hà, đã có những chỉ đạo xuống chính quyền thôn Rẫy yêu cầu giải quyết sự việc của gia đình ông Dương ức Dịch và đã mời những người liên quan lên để hòa giải".
HOÀNG NAM
Theo TPO
Mùa Xuân cổ tích trên đỉnh Giăng Màn Những mối tình tiến tới hôn nhân của thanh niên Chứt và người Kinh, cứu giúp dân tộc Chứt ít ỏi thoát khỏi hôn nhân cận huyết ở xã Hương Liên, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh đã mang lại những niềm hạnh phúc vô bờ bến trong những mái nhà trên đỉnh Giăng Màn. Sáu đám cưới của thanh niên người Chứt với...