Thiền Sư Thích Nhất Hạnh – Người điềm đạm nhất thế giới: Dành cả cuộc đời cho hoạt động hòa bình
Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người thầy của Phật giáo ở phương Tây. Những người từ khắp nơi trên thế giới tìm tới những điều ông đúc kết, giảng dạy để học “ nghệ thuật của cuộc sống chánh niệm”.
Dành cả cuộc đời hoạt động vì hòa bình
Thiền sư Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 tại Thừa Thiên – Huế với tên khai sinh là Nguyễn Xuân Bảo. Ông xuất gia theo Thiền tông vào năm 16 tuổi tại chùa Từ Hiếu.
Thiền sư tốt nghiệp viện Phật học Bảo Quốc, tu học thiền theo trường phái Đại thừa của Phật giáo. Năm 1949, khi 23 tuổi, ông chính thức trở thành nhà sư. Ông vừa là thiền sư, giảng viên, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu, nhà hoạt động xã hội, và người vận động cho hòa bình có ảnh hưởng lớn trên thế giới.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phối hợp kiến thức của ông về nhiều trường phái thiền khác nhau cùng với các phương pháp từ truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ, những nhận thức sâu sắc từ truyền thống Phật Giáo Đại thừa, và một số phát kiến của ngành tâm lý học đương đại phương Tây để tạo thành cách tiếp cận mới đối với thiền.
Năm 1956, Thiền sư Thích Nhất Hạnh làm Tổng biên tập của Phật giáo Việt Nam, tờ báo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thập niên 1960, ông lập nên trường Thanh niên Phụng sự Xã hội (SYSS), một tổ chức từ thiện giúp dựng lại các làng bị đánh bom, xây trường học, trạm xá, và hỗ trợ những gia đình vô gia cư sau chiến tranh ở Việt Nam.
Ông cũng là một trong những người thành lập Đại học Vạn Hạnh, trường tư thục danh tiếng, tập trung nhiều nhà nghiên cứu về Phật giáo, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam.
Thiền sư Thích Nhất hạnh đã nhiều lần đến Mỹ để nghiên cứu và diễn thuyết tại Đại học Princeton và Đại học Cornell. Sau này, ông tham gia giảng dạy tại Đại học Columbia. Tuy nhiên, mục đích chính của những chuyến đi ra nước ngoài của ông vẫn là vận động cho hòa bình.
Năm 1966, ông lập ra dòng tu Tiếp Hiện đồng thời thành lập nhiều trung tâm thực hành và thiền viện trên khắp thế giới. Ông ở nước ngoài từ sau khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, cư ngụ chủ yếu tại Tu viện Làng Mai, vùng Dordogne, miền nam nước Pháp.
Trong chuyến đi 1966 lần đầu tiên ông gặp nhà đấu tranh dân quyền Martin Luther King Jr, người sau này đã đề cử ông giải Nobel Hòa bình vào năm 1967. Thiền sư Thích Nhất Hạnh sau đó tiếp tục đi khắp nơi, truyền bá thông điệp hòa bình và từ bi, vận động các nhà lãnh đạo phương Tây tác động đến chiến tranh tại Việt Nam, và trở thành nhà lãnh đạo phái đoàn Phật giáo tại Paris Peace Talks vào năm 1969.
Cuộc đời thiền sư Thích Nhất Hạnh gắn liền với các hoạt động vì hòa bình. Ông từng được nhà hoạt động hòa bình nổi tiếng Mỹ Martin Luther King Jr. đề cử Thiền sư cho Giải Nobel Hòa bình nhưng năm đó không ai được trao giải.
Theo thiền sư Thích Nhất Hạnh, chìa khóa để hòa giải chính là việc “biết lắng nghe”. Ông cũng khuyên các chính trị gia nên học theo con đường của Phật giáo để giúp ích cho đàm phán và hòa giải.
Người thầy của Phật giáo ở phương Tây
Dù ở đâu, ông vẫn tiếp tục giảng dạy, viết sách về nghệ thuật chánh niệm và “sống hòa bình”. Năm 1975 ông thành lập cộng đồng Sweet Potato gần Paris. Năm 1982, cộng đồng này di chuyển đến một khu vực rộng lớn hơn ở phía tây nam của nước Pháp, nơi thanh bình và tuyệt đẹp đó được gọi là “Làng Mai” hay Đạo tràng Mai Thôn.
Video đang HOT
Dưới sự lãnh đạo của Thiền sư Nhất Hạnh, Làng Mai đã phát triển từ một trang trại nông thôn nhỏ trở thành tu viện Phật giáo lớn nhất và năng động nhất ở phương Tây. Hiện nay, Làng Mai có hơn 200 tu sĩ thường trú và hơn 8.000 du khách mỗi năm. Những người từ khắp nơi trên thế giới tới Làng Mai để học “nghệ thuật của cuộc sống chánh niệm”.
Trong hai mươi năm qua, hơn 100.000 người đã cam kết tuân theo quy tắc hiện đại của Thiền sư Nhất Hạnh về đạo đức toàn cầu phổ cập trong cuộc sống hàng ngày của họ, được gọi là “Thực tập 5 chánh niệm”.
Là một trong những người thầy về Phật giáo ở phương Tây, những lời dạy và phương pháp của thiền sư Thích Nhất Hạnh thu hút sự quan tâm của nhiều người đến từ các quan điểm tôn giáo, tâm linh và chính trị khác.
Thực tập theo pháp môn của thiền sư Thích Nhất Hạnh, không ít người đã phát triển trí tuệ và lòng từ bi, thực tập lối sống tỉnh thức, biết cách bình an và có được niềm vui ngay sống với hiện tại. Cách thực hành chánh niệm mà ông đưa ra thường được điều chỉnh cho phù hợp với tri giác phương Tây.
Trên internet, bạn có thể dễ dàng tìm được danh sách những cuốn sách Anh ngữ mà thiền sư là tác giả. Hầu hết các tác phẩm của ông đều được chuyển ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới và được bày trên những kệ sách về tôn giáo, triết học ở khắp các hiệu sách lớn nhỏ ở khắp thế giới.
Ở Mỹ, châu Âu, các tác phẩm của thiền sự là đầu sách bắt buộc phải đọc cho sinh viên các khoa tâm lý, triết học, tôn giáo và văn hóa.
Với những gì thiền sư Thích Nhất Hạnh đã làm trong suốt cuộc đời của mình, ông đã khai mở và hướng rất nhiều người tới con đường đúng đắn để sống hạnh phúc, hòa bình ở khắp nơi trên thế giới.
Người đánh khẽ tiếng chuông tỉnh thức cho toàn thế giới
Ông cho rằng thực hành Chánh niệm giúp nhận diện niềm đau nỗi khổ và chuyển hóa chúng. Chánh niệm là sự biết rõ những gì đang có mặt, đang xảy ra. “Khi nắm tay một em bé, ta hãy để tâm một trăm phần trăm vào bàn tay em. Khi ôm người thương trong vòng tay cũng thế. Hãy thực sự có mặt, thực sự tỉnh thức. Điều này trái ngược hẳn với cách sống và làm việc của ta trước đây.
Chúng ta từng có thói quen làm nhiều việc cùng một lúc. Vừa trả lời e-mail vừa nói điện thoại. Trong khi đang họp về một dự án này, ta viết xuống những ghi chú cho một dự án khác. Thay vì luôn làm nhiều việc cùng một lúc, ta phải tập thói quen chỉ làm mỗi lần một việc”, Thiền sư viết trong cuốn sách “Quyền lực đích thực”.
Trong cuộc phỏng vấn với nhà báo John Malkin, thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích về Phật giáo dấn thân: “Phật giáo phải gắn liền với cuộc sống thường nhật, với nỗi đau của bạn và những người xung quanh. Bạn phải học cách giúp đỡ một đứa trẻ bị thương trong lúc duy trì hơi thở chánh niệm. Bạn phải giữ cho bản thân khỏi lạc lối trong hành động. Hành động phải đi cùng thiền”, ông nhấn mạnh.
Ông đã viết hơn 100 cuốn sách, trong đó hơn 40 cuốn bằng tiếng Anh, với một số tác phẩm nổi bật như Đường xưa mây trắng, Phép lạ của sự tỉnh thức, Hạnh phúc cầm tay, Phật trong ta, Chúa trong ta…
Sau hơn 4 thập niên rời xa quê hương, ông về Việt Nam lần đầu vào năm 2005 và năm 2007. Ông đi khắp đất nước, tổ chức những khóa tu, buổi pháp thoại và gặp gỡ các tăng ni phật tử.
Đầu năm 2007, với sự đồng ý của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ông tổ chức ba trai đàn chẩn tế lớn tại ba miền Việt Nam với tên gọi “Đại trai đàn Chẩn tế Giải oan”, cầu nguyện và giải trừ oan khổ cho những người từng chịu hậu quả của chiến tranh.
Tại Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc tại Hà Nội, ông được mời về Việt Nam với tư cách là người thuyết trình chủ đề chính.
Năm 2014, Thiền sư vị xuất huyết não và trải qua quá trình hôn mê. Sau khi phục hồi, Thiền sư năm 2016 từ Pháp đến tịnh dưỡng ở Trung tâm tu học Làng Mai ở Thái Lan để được gần quê hương hơn. Năm 2017, ông một lần nữa trở lại Việt Nam và thăm chùa Từ Hiếu.
Tháng 10 năm 2018, trở về an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, Việt Nam cho tới khi viên tịch lúc 0:00 giờ ngày 22 tháng Giêng năm 2022.
Theo đánh giá của AP, Với những hoạt động không ngừng nghỉ của mình, thiền sư Thích Nhất Hạnh trở thành nhà lãnh đạo Phật giáo có ảnh hưởng lớn thứ hai ở phương Tây, chỉ sau Đạt Lai Lạt Ma. Huffington Post hồi cuối năm 2012 gọi thiền sư Thích Nhất Hạnh là “con người điềm đạm nhất thế giới”.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh và bài học về hạnh phúc: Tôi hứa với bản thân, tôi sẽ tận hưởng mọi phút giây mà tôi được sống mỗi ngày
Cuộc đời Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tổ đình Từ Hiếu, Đạo tràng Mai Thôn Tu viện Vườn Ươm - Làng Mai Thái Lan vừa có cáo phó Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu và công bố sơ lược tiểu sử của ngài.
Theo cáo phó của Tổ đình Từ Hiếu, Đạo tràng Mai Thôn Tu viện Vườn Ươm - Làng Mai Thái Lan, Thiền sư Thích Nhất Hạnh -Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu rộng trên khắp thế giới. Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về Tổ đình Từ Hiếu vào tháng 10.2018. Ảnh V.T
Thiền Sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khóa tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ... Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp, Thiền sư cũng tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hóa Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn thế hệ nối tiếp.
Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là "một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động" khi đề cử Thiền sư cho giải Nobel Hòa bình năm 1967. Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1.250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu. Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hóa mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua.
Sơ lược tiểu sử Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung, H.Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế. Ngài là con kế út trong gia đình có sáu anh chị em, cha là cụ ông Nguyễn Đình Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ.
Năm 1942, ngài xuất gia tại Tổ đình Từ Hiếu với Thiền sư Thanh Quý Chân Thật, được ban pháp danh Trừng Quang. Tháng 9 năm 1945, ngài thọ giới Sa di với Bổn sư, được ban pháp tự Phùng Xuân. Năm 1947, ngài theo học Phật học đường Báo Quốc, Huế.
Năm 1949, ngài rời Huế vào Sài Gòn tiếp tục tu học. Bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích Nhất Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Đồng sáng lập chùa Ấn Quang, làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
Tháng 10.1951, ngài thọ Giới Lớn tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn với Hòa thượng Đường đầu Thích Đôn Hậu.
Tăng ni phật tử đón Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về Tổ đình Từ Hiếu năm 2018. Ảnh V.T
Năm 1954 ngài được Tổng Hội Phật Giáo giao trách nhiệm cải cách giáo dục, làm Giám học Phật Học Đường Nam Việt.
Năm 1955, ngài làm chủ bút nguyệt san Phật giáo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Tổng hội Phật Giáo Việt Nam.
Năm 1957, ngài thành lập Phương Bối Am, Bảo Lộc. Từ năm 1961 - 1963, tham học, nghiên cứu và giảng dạy tại đại học Princeton và Columbia, Mỹ; sáng tác đoản văn "Bông Hồng Cài Áo".
Năm 1964, ngài được mời trở về Việt Nam tham gia lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN), thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn tại chùa Pháp Hội (tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh) và nhà xuất bản Lá Bối. Làm chủ bút tuần san Hải Triều Âm, cơ quan ngôn luận của Viện Hóa Đạo.
Năm 1965, ngài thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội. Năm 1966, sáng lập Dòng tu Tiếp Hiện. Ngày 1.5.1966, được Bổn sư phú pháp truyền đăng tại chùa Từ Hiếu và được kế thừa Trú trì Tổ đình Từ Hiếu sau khi Bổn sư viên tịch.
Ngày 11.05.1966, ngài rời Việt Nam kêu gọi Hòa bình, bắt đầu 39 năm sống và truyền đạo ở nước ngoài. Năm 1967, ngài được mục sư Martin Luther King Jr. đề cử giải Nobel Hòa bình.
Năm 1968 - 1973, ngài vận động hòa bình cho Hội nghị Hòa bình Paris (1968-1973). Trong thời gian này, ngài được mời dạy môn "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" tại Trường đại học Sorbonne (Pháp) và soạn Việt Nam Phật giáo Sử luận 3 tập với bút hiệu Nguyễn Lang.
Tháng 9.1970, ngài được GHPGVNTN chính thức đề cử làm lãnh đạo Phái đoàn Phật giáo Hòa bình tại Hội nghị Paris. Tháng 5.1970, ngài tham gia soạn thảo Tuyên ngôn Menton về vấn đề tàn hại sinh môi, ô nhiễm môi trường và sự gia tăng dân số. Cùng các cộng sự gặp ông U Thant, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và được ông cam kết yểm trợ.
Năm 1972, ngài chủ trì Hội nghị Môi trường có tên Đại Đồng với nội dung: sinh thái học bề sâu, tính tương tức và tầm quan trọng của việc bảo hộ trái đất. Năm 1971, ngài thành lập Phương Vân Am, Paris.
Tăng ni phật tử đón Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam năm 2018. Ảnh NGUYỄN VĂN SUM
Năm 1982, ngài thành lập Đạo tràng Mai Thôn tại Pháp. Năm 1998, thành lập Tu viện Thanh Sơn, Mỹ; năm 2000, thành lập Tu viện Lộc Uyển, Mỹ. Năm 1999, cùng với các chủ nhân giải Nobel Hòa bình soạn thảo Tuyên ngôn 2000 về một nền hòa bình và bất bạo động cho thiên niên kỷ mới.
Năm 2005, ngài trở về Việt Nam lần thứ nhất. Thành lập tu viện Bát Nhã, Bảo Lộc. Năm 2007, trở về Việt Nam lần thứ hai, tổ chức ba Đại Trai Đàn Bình Đẳng Chẩn Tế tại ba miền. Năm 2008, trở về Việt Nam lần thứ ba, thuyết giảng tại lễ Vesak Liên Hiệp quốc.
Từ năm 2008, ngài thành lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu, Đức; Tu viện Bích Nham, Tu viện Mộc Lan, Mỹ; Thiền đường Hơi Thở Nhẹ, Paris (Pháp); Làng Mai Thái Lan; Viện Phật học Ứng dụng Châu Á, Hồng Kông; Tu viện Nhập Lưu, Úc; Ni xá Diệu Trạm, Ni xá Trạm Tịch, Việt Nam; tiếp tục mở rộng công trình hoằng pháp và xây dựng Tăng thân trên khắp thế giới.
Từ tháng 10.2018, Thiền sư Thích Nhất Hạnh trở về an dưỡng tại Tổ đình Từ Hiếu, Việt Nam. Ngài đã an trú, tịnh dưỡng tại đây cho đến 00:00 giờ ngày 22.1.2022), an nhiên thị tịch tại Thất Lắng Nghe, Tổ đình Từ Hiếu (nay P.Thủy Xuân, TP.Huế, Thừa Thiên - Huế). Tang lễ của ngài được Đạo tràng và môn đồ pháp quyến tổ chức tại Tổ đình Từ Hiếu.
Truyền thông quốc tế ca ngợi ảnh hưởng và công đức của thiền sư Thích Nhất Hạnh Nhiều hãng truyền thông quốc tế ca ngợi về công đức của Thiền sư Thích Nhất Hạnh khi đưa tin ông viên tịch. Bài báo về Thiền sư Thích Nhất Hạnh trên tờ National Catholic Reporter.ẢNH CHỤP MÀN HÌNH Đài CNN ngày 22.1 đưa tin về Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch và gọi ông là một thiền sư lỗi lạc, nhà...