Thế giới thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam ra sao?
Từ hơn 5 thế kỷ trước, Hoàng Sa, Trường Sa đã được các nhà bản đồ học, các nhà hàng hải… phương Tây thừa nhận.
Phần 1: Bản đồ cổ thế giới thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Trong khi các bản đồ cổ về Trung Quốc do thế giới và chính Trung Quốc xuất bản trước thế kỷ XX đều có cương giới dừng lại ở điểm cực Nam của đảo Hải Nam thì rất nhiều bản đồ cổ về Việt Nam do thế giới và Việt Nam xuất bản đều vẽ Hoàng Sa, Trường Sa và khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo này.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi đề cấp đến những bản đồ thế giới hay bản đồ Đông Nam Á được các nhà hàng hải, các nhà phát kiến địa lý và các thương gia phương Tây vẽ từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Bản đồ do Jodocus Hondius vẽ năm 1613, thể hiện quần đảo Pracel (Hoàng Sa), bao gồm tất cả các đảo của Việt Nam từ nam vịnh Bắc Bộ cho đến hết vùng biển phía nam của Việt Nam, trừ Pulo Condor (Côn Đảo) và Pulo Cici (đảo Phú Quốc) được vẽ riêng
“Đây là những bản đồ có thể hiện bằng hình vẽ hoặc bằng ghi chú vị trí của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở trong vùng biển của nước ta với nhiều tên gọi khác nhau. Điều này chứng tỏ từ thế kỷ XVI, nhiều người phương Tây đã biết đến vùng biển đảo Hoàng Sa và ghi nhận quần đảo này là một phần lãnh thổ của Việt Nam lúc bấy giờ”, TSKH Trần Đức Anh Sơn – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội TP Đà Nẵng khẳng định.
Theo TS Trần Đức Anh Sơn, trên những tấm bản đồ này, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thường được miêu tả như “lưỡi dao” dài, kéo dọc suốt ngoài khơi đối diện với bờ biển Việt Nam. Tên của các đảo và quần đảo được ghi khá rõ trên bản đồ các bản đồ này. Đầu của “lưỡi dao” thường ghi: I. de Pracel hay Paracel Islands, Paracel, Paracels, Pracel, Parcels… Điểm cuối của “lưỡi dao” thường ghi là Pulo Sissir (hay Pullo Sissir, Pulo Cécir), gồm hai đảo: Pullo Sissir da Terra (Cù Lao Câu) và Pullo Sissir do Mar (Cù Lao Thu) ở vùng biển Bình Thuận ngày nay.
Video đang HOT
Bản đồ do Homann Heirs vẽ năm 1744 thì hình vẽ quần đảo Hoàng Sa được ghi chú là”I. Ciampa”, viết tắt của chữ”Islands Ciampa”, nghĩa là”quần đảo(thuộc vương quốc)Ciampa”.CiempahayCampalà tên các nước phương Tây lúc bấy giờ gọi xứ Đàng Trong, do họ cho rằng đây là đất cũ của vương quốc Champa
Vùng bờ biển Việt Nam đối diện với quần đảo mà người phương Tây ghi là Pracel hay Paracel, tức là vùng duyên hải miền Trung Việt Nam ngày nay, thì được ghi chú là Costa da Paracel hay Coste de Pracel, tức là bờ biển Hoàng Sa, hay là Costa de Campa, tức là bờ biển Champa. Cách ghi này chứng tỏ các nhà hàng hải, các nhà địa lý phương Tây lúc bấy giờ đã mặc nhiên thừa nhận hai quần đảo này thuộc về Việt Nam lúc bấy giờ mà họ gọi là Cochinchine, Cochinchina, Cauchy-Chyna, Cochi-China, Cauchim Chynan, Annam, Champa…
Đặc biệt, trên tờ bản đồ An Nam đại quốc họa đồ do Giám mục Jean Louis Taberd vẽ năm 1838 có ghi dòng chữ Latin: Paracel seu Cát Vàng, nghĩa là “Paracel hoặc là Cát Vàng”. Giám mục Taberd là tác giả một bài viết in trong tạp chí The Journal of the Asiatic Society of Bengal (số 6, năm 1837) xuất bản tại Calcuta, đã khẳng định: “Paracels, hay Pracel, tức là Hoàng Sa – Cồn Vàng, thuộc về Cochinchina”, tức là thuộc về Việt Nam. Bản gốc của bản đồ này hiện đang lưu giữ tại Thư viện quốc gia Pháp Richelieu tại Paris.
An Nam đại quốc họa đồ do Giám mục Taberd vẽ năm 1838
“Đó là cách mặc nhiên thế giới nhận Hoàng Sa đích thực thuộc chủ quyền của Việt Nam ít nhất từ 5 thế kỷ nay”, nhận xét của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu – một chuyên gia hàng đầu về bản đồ cổ Việt Nam. Riêng ông Nguyễn Đình Đầu đã sưu tập được 30 bản đồ cổ của phương Tây, có niên đại từ năm 1489 đến năm 1697, có thể hiện hình vẽ và địa danh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Bản đồ do W. Blaeu vẽ năm 1645 thì quần đảo Pracel (Hoàng Sa) được vẽ nối liền với các đảo: Pulo Secca de Mare (Cù Lao Thu, tức đảo Phú Quý), Pulo Cambir (Cù Lao Xanh), Pullo Canton (Cù Lao Ré, tức đảo Lý Sơn), thành một chuỗi đảo liên hoàn thuộc lãnh thổ Cochinchina (Đàng Trong)
Ngoài ra, cá nhân đã sưu tập được nhiều bản đồ thế giới chứng tỏ Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam phải kể đến ông Trần Thắng, Việt kiều Mỹ. Anh Trần Thắng sau khi bỏ tiền túi ra mua những tấm bản đồ, cũng như sao chụp các nguồn tư liệu này đã tặng Viện Nghiên cứu và phát triển kinh tế – xã hội Đà Nẵng. Đến nay Viện này lưu giữ khoảng 200 bản đồ ở dạng ấn phẩm đã xuất bản và bản mềm được sao chụp từ các ấn phẩm gốc đáng tin cậy đang được lưu giữ trên thế giới.
Bản đồ do Visscher vẽ năm 1680
Như vậy, ngoài những sự kiện lịch sử đã được chứng thực, cùng với các nguồn tư liệu thành văn với nhiều ngôn ngữ khác nhau, thì những tấm bản đồ cổ của phương Tây nói trên đã góp phần chứng minh rằng từ hơn 5 thế kỷ trước, Việt Nam đã xác lập chủ quyền quốc gia trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chủ quyền này đã được các nhà bản đồ học, các nhà hàng hải, nhà phát kiến địa lý… phương Tây thừa nhận và ghi dấu lên những tấm bản đồ địa lý và bản đồ hàng hải của họ.
Vì thế, những tấm bản đồ này là những tư liệu quý, góp phần khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa./.
Mời đón đọc phần 2: Văn tự cổ phương Tây khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Một số bản đồ thế giới đáng chú ý: Bản đồ Asia do Gerard Mercator (1512 – 1594) vẽ vào cuối thế kỷ 16; bản đồ East India do Petrus or Pieter vẽ năm 1594; bản đồ India Orientalis do Jodocus Hondius vẽ năm 1613; bản đồ Insul Indi Orientalis Pracipu do Jodocus Hondius vẽ năm 1613; bản đồ Asia noviter delineata do Willem Janszoon Blaeu vẽ năm 1617; bản đồ Asia do John Speed vẽ năm 1626; bản đồ Asia do John Speed vẽ năm 1626; bản đồ India Orientalis do Gerard Mercator vẽ năm 1630; bản đồ Insul Indi Orientalis do Jodocus Hondius vẽ năm 1632; bản đồ Carte de l’Asie do Van Lochem vẽ năm 1640; bản đồ India qu Orientalis dicitur, et Insvl Adiacentes do Willem Janszoon Blaeu vẽ năm 1645; bản đồ Indi Orientalis do Visscher vẽ năm 1680; bản đồ Carte des Costes de l’Asie sur l’ocean contenant les bancs isles et costes & c. do Alexis Hubert Jaillot vẽ năm 1720, bản đồ Carte de l’Asia do Homann Heirs vẽ năm 1744…
Theo Anh Sơn – Trà Xanh
VOV online
"Là một tế bào của nước Nga, tôi xấu hổ trước bạn bè Việt Nam"
"Là một tế bào của nước Nga, tôi thấy xấu hổ trước bạn bè Việt Nam của mình - những người do có bài báo của Kosyrev được đăng trên một trong những tờ báo hàng đầu của nước Nga mà có chút nghi ngại đối với sự chân thành và tử tế trong quan hệ của chúng ta...".
Sau khi đọc bức thư ngỏ của nhà báo Trần Đăng Tuấn gửi Tổng Giám đốc Hãng tin Nga về một bài viết với những lời lẽ sai lệch, xúc phạm đến lịch sử của Việt Nam, bà Evgenia Golovnia ( ) - nguyên giảng viên trường Đại học Điện ảnh Quốc gia toàn Liên Xô, nguyên Giám đốc Trung tâm Điện ảnh và vô tuyến truyền hình dành cho thanh thiếu niên - đã có đôi dòng chia sẻ cùng một người Việt đang lao động nghiên cứu tại Nga là ông Hà Thanh. Được sự đồng ý của chủ nhân bức thư, Dân trí xin đăng lại bức thư thấm đẫm tình cảm của người Nga yêu Việt Nam này.
"Sự thành tâm và nỗi đau trong thư của bạn khiến tôi suy ngẫm quan điểm của riêng mình...
Tiếc thay, mỗi dân tộc và mỗi thế hệ đều có những người- kỳ- nhông đổi màu để thích ứng với hoàn cảnh sống tiện nhất cho họ lúc ấy. Cái hoàn cảnh sống bây giờ của Kosyrev đem lại cho ông ta lợi lộc gì, những động cơ nào thúc đẩy ông ta - những cái đó không đáng quan tâm. Điều đáng quan tâm là điều bạn nói về bài báo đó. Bạn nói đúng - "Tại sao phải minh chứng cái cần thiết của một quan hệ mới bằng cách phủ nhận tình bạn cũ? Đó là điều xa lạ với tính cách của cả người Nga và người Việt". Điều đó không chỉ xa lạ với tính cách của hai dân tộc chúng ta, nó còn trái ngược với chất người BÌNH THƯỜNG.
Là một nhà báo, Kosyrev thiển cận và thiếu học, vì là người phụ thuộc và không trong sạch. Ông ta không có tầm tư chất báo chí đáng kể đối với xã hội để có thể phản ánh ý kiến của nhân dân Nga. Khi tôi còn là sinh viên, có những bạn Việt Nam cùng học. Khi tôi làm giáo viên, trong số sinh viên có các bạn người Việt. Chăm chỉ, chân thành, tử tế - họ được tôn trọng bởi lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc của mình. Đó là những người bạn, những người đồng chí của chúng tôi.
Là một người làm phim tài liệu, tôi biết lịch sử hiện đại của các bạn không phải qua ai. Tôi biết những thước phim chiến tranh Việt Nam, tôi cũng biết những thước phim về những ngày yên bình. Tôi quen nhiều người là đồng bào của tôi từng sống và làm việc tại Việt Nam. Chưa bao giờ tôi nghe thấy một lời nào không hay về nhân dân Việt Nam, một lời nào có hại cho quan hệ hai nước.
Là một tế bào của nước Nga, tôi thấy xấu hổ trước bạn bè Việt Nam của mình - những người do có bài báo của Kosyrev được đăng trên một trong những tờ báo hàng đầu của nước Nga mà có chút nghi ngại đối với sự chân thành và tử tế trong quan hệ của chúng ta. Tôi tin nhiều đồng bào của tôi đang có cảm giác tương tự. Và họ cũng như tôi đang đề nghị một điều: Xin đừng nghĩ về nước Nga và nhân dân Nga căn cứ vào những bài báo mà kẻ viết ra chúng thậm chí ngay cả nước Nga kẻ đó cũng đâu thực sự biết đến. Không biết và không yêu. Xin thứ lỗi.".
Theo Dantri
Chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa thời Pháp thuộc Thời cai trị của Pháp, các quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa có bị mất đi? Danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ ràng ít nhất từ thế kỷ VXII. Tuy nhiên, trong thời kỳ Việt Nam là thuộc địa của Pháp thì một vấn đề...