Thành tựu 25 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế ở An Giang
Qua 25 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), Bảo hiểm xã hội tỉnh An Giang đã đạt nhiều thành tựu. Hàng năm đều hoàn thành, đạt và vượt các chỉ tiêu quan trọng do Chính phủ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tỉnh ủy, UBND tỉnh giao, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn, phát triển kinh tế – xã hội.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Văn Phước và Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Vũ Hoàng Cương chủ trì Hội nghị trực tuyến tại điểm cầu An Giang đánh giá kết quả 25 năm thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Bảo hiểm xã hội tỉnh đã chủ động phối hợp các ngành tham mưu Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng các chương trình, kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện; đưa chỉ tiêu thực hiện chính sách BHXH, BHYT vào các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh hàng năm và được cụ thể hóa bằng các giải pháp, giao chỉ tiêu từng địa phương thực hiện.
Với nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, đến nay số người tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) tăng nhanh qua các năm. Năm 1996 có 30.435 người tham gia BHXH bắt buộc, đến hết năm 2019 là 112.980 người (tăng gần 2,7 lần, với 82.545 người). BHXH tự nguyện thực hiện từ năm 2008 chỉ với 49 người tham gia, đến hết năm 2019 tăng lên 11.325 người (tăng 231 lần). BHTN thực hiện từ năm 2009, có 49.373 người tham gia, đến hết năm 2019 tăng lên 101.209 người, chiếm 81,42% lực lượng lao động tham gia BHXH, tăng 2,1 lần so năm 2009.
Từ năm 2003, Bảo hiểm xã hội tỉnh tiếp nhận BHYT, tại thời điểm đó có 144.754 người tham gia, đến hết năm 2019 tăng lên 1.676.935 người (tăng 11,6 lần, đạt tỷ lệ bao phủ 87,87% dân số), cơ bản hoàn thành mục tiêu BHYT toàn dân và về đích trước thời hạn so với mục tiêu đề ra tại Chương trình hành động số 23-CTr/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, BHYT giai đoạn 2012-2020.
Video đang HOT
Số thu BHXH, BHYT, BHTN liên tục tăng theo thời gian. Số thu năm 1996 là 20 tỷ đồng, đến cuối năm 2019 đạt 1.686 tỷ đồng (tăng gần 82 lần). Số thu BHTN năm 2009 là 18 tỷ đồng, đến cuối năm 2019 là 116 tỷ đồng (tăng 6,32 lần). Số thu BHYT năm 2003 là 16 tỷ đồng, đến cuối năm 2019 là 1.547 tỷ đồng (tăng 99 lần).
Việc giải quyết cho hưởng các chế độ BHXH được thực hiện kịp thời, đúng quy định. Bảo hiểm xã hội tỉnh phối hợp tốt với ngành bưu điện và hệ thống ngân hàng tổ chức chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH, BHTN an toàn, kịp thời đến tận tay người thụ hưởng.
Năm 1996, toàn tỉnh có 2.523 người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, đến cuối năm 2019 tăng lên 13.543 người (tăng gần 537%). Năm 1996 có 1.361 lượt người hưởng các chế độ trợ cấp 1 lần và các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe, đến cuối năm 2019 tăng lên 38.348 lượt người.
Từ năm 2010 đến cuối năm 2019, giải quyết gần 82.536 người hưởng chế độ BHTN (bình quân trên 8.253 người/năm). Năm 1996, chi trả BHXH khoảng 10 tỷ đồng, đến năm 2019 tổng chi trả BHXH, BHTN 1.741 tỷ đồng, trong đó chi trả BHXH 1.556 tỷ đồng (tăng 156 lần), chi trả BHTN 185 tỷ đồng.
Thực hiện chính sách BHYT, đến nay đã triển khai hệ thống thông tin giám định BHYT tại các cơ sở khám, chữa bệnh (KCB), giúp quản lý KCB, giám định và thanh toán chặt chẽ, minh bạch. Đồng thời, thực hiện giám định và quyết toán trên phần mềm giám định BHYT. Tỷ lệ hồ sơ gửi đúng theo quy định lên Hệ thống thông tin giám định BHYT (hồ sơ gửi ngay khi người bệnh ra viện) đạt trên 95%. Năm 2003, gần 241.400 lượt người KCB BHYT, với số tiền chi trả BHYT hơn 11 tỷ đồng, đến năm 2019 tăng lên 4.590.248 lượt (tăng 19 lần), với tổng số tiền chi trả BHYT 1.360 tỷ đồng (tăng 117 lần).
Trong thanh tra, kiểm tra sau khi các văn bản luật được thể chế hóa, Bảo hiểm xã hội tỉnh chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh tra chuyên ngành, thanh tra đột xuất tại các đơn vị nợ đọng BHXH, BHYT, BHTN; kiên quyết xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm, ngăn chặn kịp thời các hành vi lạm dụng, trục lợi quỹ BHXH, BHYT, đảm bảo quyền lợi của người lao động.
Bảo hiểm xã hội tỉnh đã đẩy mạnh công tác truyền thông; phối hợp chặt chẽ với các sở, ban, ngành, tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể, cơ quan truyền thông đổi mới các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật BHXH, BHYT. Đồng thời, cải cách thủ tục hành chính (TTHC), ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Thực hiện Hệ thống một cửa điện tử tập trung…
Từ đó, thời gian thực hiện các TTHC được cắt giảm: từ năm 2009 đến năm 2019, bộ TTHC của ngành BHXH được cắt giảm khoảng 90%, từ 263 thủ tục xuống còn 27 thủ tục; số giờ thực hiện TTHC cho người dân và doanh nghiệp giảm 60%, từ 335 giờ/năm xuống còn 147 giờ/năm.
Bảo hiểm xã hội tỉnh đã triển khai các ứng dụng, phần mềm nghiệp vụ, hoàn thiện cơ sở dữ liệu hộ gia đình tham gia BHYT, hoàn tất kết nối liên thông với dữ liệu cấp giấy khai sinh của Bộ Tư pháp để thực hiện liên thông cấp thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi.
Đồng thời, quan tâm kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy. Bảo hiểm xã hội tỉnh thành lập năm 1995 với biên chế 50 người, nay có 247 người được đào tạo trình độ chuyên môn cao, đáp ứng tốt nhiệm vụ.
Thực hiện Đề án “Đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hội Việt Nam theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”, đầu năm 2020, sáp nhập Bảo hiểm xã hội TP. Long Xuyên về Bảo hiểm xã hội tỉnh để quản lý, điều hành và đáp ứng yêu cầu công việc.
HẠNH CHÂU
Theo AGO
Quy định về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định 38/2019/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 60/2015/QĐ-TTg ngày 27-11-2015 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế quản lý tài chính về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Trong đó, sửa đổi, bổ sung Khoản 2 Điều 4 về nguồn tài chính. Cụ thể, Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện nhiệm vụ chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người thụ hưởng thuộc đối tượng do ngân sách nhà nước đảm bảo, được Nhà nước cấp chi phí chi trả bằng 0,65% tổng số tiền chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội (trừ khoản chi trả phí khám giám định mức suy giảm khả năng lao động, chi đóng bảo hiểm y tế) (quy định cũ 0,78%), trong đó chi cho tổ chức làm đại lý chi trả bình quân bằng 70% tổng số chi phí chi trả, mức chi cụ thể do tổ chức làm đại lý chi trả của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định (quy định cũ 63%).
Quyết định cũng sửa đổi, bổ sung Điểm a và Điểm b Khoản 5 về lập dự toán, phân bổ và giao dự toán thu, chi. Cụ thể, chi phí thu bảo hiểm xã hội tự nguyện, thu bảo hiểm y tế của người tham gia theo hộ gia đình, của học sinh, sinh viên đang theo học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân (gồm: Chi đào tạo, tập huấn, thù lao cho đại lý thu; chi tổ chức hội nghị khách hàng). Mức chi tối đa bằng 7,5% số tiền đóng của người tham gia (không bao gồm số thu do ngân sách nhà nước, tổ chức, cá nhân hỗ trợ), trong đó, mức chi thù lao cho tổ chức làm đại lý thu bảo hiểm xã hội tự nguyện bình quân tối đa bằng 14% số tiền đóng của người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện; mức chi thù lao cho cơ sở giáo dục bình quân tối đa bằng 2,5% số tiền đóng của học sinh, sinh viên; mức chi thù lao đại lý thu bảo hiểm y tế của đối tượng còn lại bình quân tối đa bằng 7% số tiền đóng bảo hiểm y tế của người tham gia.
Mức chi thù lao cho đại lý cụ thể đối với từng nhóm đối tượng tham gia (đối tượng tham gia lần đầu, đối tượng tiếp tục tham gia) và của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam quyết định phù hợp với tình hình thực tế của từng tỉnh, thành phố.
Chi phí trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp từ quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm thất nghiệp bằng 0,65% số tiền chi trả từ các quỹ thành phần: Bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất (trừ các khoản chi phí: Phí khám giám định; dưỡng sức, phụ hồi sức khỏe; hỗ trợ phòng ngừa, chia sẻ rủi ro về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp khi trở lại làm việc; đóng bảo hiểm y tế) và chi trợ cấp thất nghiệp. Mức chi cụ thể cho tổ chức làm đại lý chi trả của từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện theo quy định.
Theo PL&XH
Doanh nghiệp vận tải 'đói' khách, 'khát' khẩu trang Tâm lý lo sợ Covid-19 khiến các dịch vụ xe khách, xe tải gặp nhiều khó khăn. Có địa phương sụt giảm tới 70% sản lượng hành khách. Sáng 27/2, tại cuộc họp của Bộ GTVT về ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 đến doanh nghiệp vận tải, lãnh đạo Tổng cục Đường bộ đưa ra các số liệu sụt giảm nghiêm trọng...