Thành lũy bằng đá quý hiếm ở Việt Nam
Thành nhà Hồ là công trình có kiến trúc độc đáo bằng đá quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam và duy nhất còn lại ở Đông Nam Á. Đây cũng là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới.
Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, An Tôn, Tây Kinh hay Tây Giai) là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ). Hiện nay, thành nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá), được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397.
Trên hình là cổng chính (phía nam) gồm 3 cửa. Ba cổng còn lại chỉ có một cửa. Tường thành cao trung bình 5-6 m, chỗ cao nhất là cổng tiền (10 m).
Những phiến đá nặng hàng tấn chỉ xếp lên mà không cần chất kết dính vẫn đảm bảo độ bền vững.
Môt phiến đá được nhà Hồ cho khai thác với mục đích xây dựng thành. Theo sử liệu, vào năm 1397, trước nguy cơ đất nước bị giặc Minh từ phương Bắc xâm lăng, Hồ Quý Ly chọn đất An Tôn (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng dân đoạn tuyệt với nhà Trần.
Cổng phía Bắc thành nhà Hồ.
Cổng Tây Thành nhà Hồ.
Video đang HOT
Rồng đá bị mất đầu hiện được đặt ở trung tâm tòa thành. Rồng nằm song song hai bên đường đi xuyên qua thành nối từ cổng Nam lên cổng Bắc.
Qua hơn 600 năm cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử và tác động của thời tiết, hệ thống tường thành còn khá nguyên vẹn, dù thời gian xây dựng gấp gáp, chỉ trong khoảng 3 tháng.
Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá vôi màu xanh, đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá dài trung bình 1,5 m, có tấm dài tới 6 m, trọng lượng ước nặng 24 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu.
Đàn tế Nam Giao trong khu quần thể di tích Thành nhà Hồ là đàn tế còn lại nguyên vẹn nhất và quý giá nhất Việt Nam hiện nay. Xưa kia đây là nơi hàng năm triều nhà Hồ tiến hành lễ tế trời, cầu cho quốc thái, dân an hoặc lễ tế vào những dịp đại xá thiên hạ. Đàn Nam Giao có diện tích khoảng hơn 2 ha, lưng tựa núi Đún, tiền án là “cánh đồng Nam Giao”.
Vật liệu chính để xây dựng đàn là đá xanh và gạch, ngói…. Hiện, nơi đây còn dấu tích của con đường linh đạo được lát bằng những phiến đá xanh mài nhẵn, mà trước kia vua đi để vào khu vực tế chính. Năm 2007, di tích khảo cổ địa điểm đàn tế Nam Giao – Tây Đô được xếp hạng di tích quốc gia.
Thành nhà Hồ nằm ở khu vực giữa sông Mã và sông Bưởi, phía bắc có núi Thổ Tượng, phía tây có núi Ngưu Ngọa, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía nam là nơi hội tụ của sông Mã và sông Bưởi.
Cách cổng Tây Thành nhà Hồ 200 m là nhà cổ gia đình ông Phạm Ngọc Tùng thuộc làng Tây Giai, xã Vĩnh Tiến. Ngôi nhà này được xây dựng năm 1810, và UNESCO công nhận là một trong 10 nhà cổ dân gian tiêu biểu nhất Việt Nam.
Trong các làng cổ ở khu vực đệm còn bảo tồn rất nhiều nhà cổ truyền thống (hiện là nhà ở của người dân), có niên đại thế kỷ 19 – đầu 20.
Phiến đá – kiêm thần vị thờ nàng Bình Khương bên trong đền thờ nàng Bình Khương – phu nhân của Cống sinh Trần Công Sỹ, một trong những người chỉ huy xây dựng tường thành phía đông. Đên nằm sát tường phía đông trong Thành Nhà Hồ
Theo VNExpress
Đi dọc miền Tây Thanh Hóa
Vùng đất này được ví như miền Tây Bắc thu nhỏ trong lòng xứ Thanh, cảnh đẹp hùng vĩ hiện lên như khúc độc hành của riêng sông Mã.
Hà Nội bắt đầu chuyển sang thu, đứa con gái 25 tuổi ngồi bó gối trong thành phố, cảm giác "nhớ rừng" quay quắt về một miền xa vắng ít nắng, nhiều mưa. Vậy là nó lên kế hoạch, sửa sang lại xe cộ để về với miền Tây Thanh Hóa.
Với nó, những cái tên quen thuộc như Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hóa... đủ núi cao, sông sâu, ruộng bậc thang, món ăn khó lẫn như một miền Tây Bắc thu nhỏ trong lòng xứ Thanh chứa những bí mật không bao giờ khám phá hết.
Những nếp nhà sàn bình dị ẩn hiện cùng ruộng bậc thang.
Dọc cung đường này không có hoa cải trắng, tam giác mạch nên thơ, chỉ có cái ầm ào, dữ dội của dòng sông Mã và sự gập ghềnh của đường đi kích thích máu "liều". Dân du lịch bụi thường đi theo quốc lộ 6, từ bản Lác (Mai Châu, Hòa Bình) tới Trung Sơn, Trung Lý (Mường Lát) rồi xuôi Hồi Xuân (Quan Hóa), Cành Nàng (Bá Thước), chạy dọc sông Mã rồi lại ngược Cẩm Thủy, đi đường mòn Hồ Chí Minh về tạo thành một vòng tròn thú vị.
Mường Lát kỳ vĩ và nên thơ là nơi đầu tiên trong hành trình con sông Mã trở về đất Việt sau khi uốn lượn cả trăm cây số trên đất Thượng Lào. Trong tiếng Thái, Mường Lát nghĩa là "nơi nước tràn qua", và mùa mưa chính là lúc nước từ hàng trăm con suối tràn qua bản để về sông Mã. Đường từ Co Lương về trung tâm Mường Lát đi qua vài chục con suối lớn nhỏ, có đá chắn ngang lòng. Sông Mã như con ngựa bất kham nên những dòng suối đổ về đó cũng không có dáng vẻ hiền lành thường thấy.
Con đường không dài nhưng đủ nhớ với dốc cao vừa lầy vừa trơn, thử thách bản lĩnh người cầm lái bằng những cú trượt dốc, bùn đất cuốn chặt hai bánh xe. Gặp đoạn này, xế phải vững tay lái, còn ôm thì sẵn sàng xuống xách giầy và lội bộ qua.
Trẻ em miền núi đáng yêu, không ngại ngần trước ống kính máy ảnh.
Từng dải lúa, nương ngô trải dài từ sườn đồi nọ đến sườn đồi kia, dập dềnh trong nắng sớm. Tén Tằn, Tam Chung... được coi là vựa lúa của vùng biên. Vào mùa gặt, từng lớp sóng lúa màu xanh chen lẫn màu vàng, đem no ấm về trong mùi cơm nếp mới hòa cùng màu khói tỏa trên những mái tranh. Cuối tháng 8 là thời điểm các thiếu nữ Mông ngồi dệt sợi, may váy bên bờ suối để chuẩn bị ăn Tết độc lập. Nơi thượng nguồn sông Mã, cuộc sống gắn liền nương rẫy còn xiết bao vất vả.
Ấn tượng vào Mường Lát là đi qua nhiều cầu đủ loại như cầu tre, cầu gỗ, lớn nhất là cầu treo bắc qua sông Mã ngay trung tâm thị trấn Mường Lát. Nghỉ qua đêm ở đây giá chỉ 200.000 đồng đến 250.000 đồng. Từ ban công nhà nghỉ nhìn xuống, mây bay là là phủ kín những dãy núi bên sông.
Mải mê ngắm núi rừng mà chưa kịp đến thị trấn, bạn có thể xin ở lại nhà dân trong bản. Họ rất nhiệt tình, sẵn sàng cho ngủ lại qua đêm không lấy tiền nhưng có thể bạn sẽ phải uống với gia chủ vài chén rượu ngô trước khi đi nằm. Nếu may mắn, bạn còn được họ mời thưởng thức món sâu măng xào lá chanh, đặc sản của núi rừng chỉ có vào độ tháng 9, tháng 10.
Đường từ Mường Lát về thị trấn Hồi Xuân (Quan Hóa) vẫn là núi cao, sông rộng nhưng không còn cái hiểm trở của trời Tây Tiến nữa. Hai bên bờ sông Mã rợp bóng mát của những rừng luồng. Mùa nước cạn, sông Mã hiện ra nhiều bãi sỏi, ghềnh đẹp mắt. Từ thị trấn Hồi Xuân chạy thẳng đường xuống Nam Xuân thăm hang Ma, nơi nghĩa địa chứa những quan tài bằng gỗ của người Thái. Những vách đá khổng lồ như tạc xuống dòng sông. Cửa hang nằm khuất sau những tán cây rừng rậm rạp bên sườn Pa Cáng.
Những vách núi sừng sững như tạc vào lòng sông.
Dưới sông, những bè, mảng của đồng bào dân tộc xuôi dòng, tập kết thành từng điểm. Họ khỏe mạnh, lên thác xuống ghềnh cự phách như những con cá lăng. Dòng nước dữ dội đi vào trong câu ca: Nhất Chiếng, nhì Cả, ba Long/ Lòng còn ái ngại Ngốc Cùng mà thôi. Cuộc sống nay đây mai đó, nhiều người bị thủy thần cướp đi cũng không khiến họ bỏ nghề, vẫn vượt sóng cuộn, thác ghềnh để mưu sinh.
Không nhiều kỳ bí như Mường Lát, Quan Hóa, Pù Luông giống cô gái Thái hiền hậu, đẹp rạng ngời còn say ngủ giữa núi rừng hoang vu.
Kho Mường, bản Nủa, bản Hin, phố Đòn là những cái tên gợi nhớ khi đến nơi này. Bản Hiêu (xã Cổ Lũng) bình yên với ruộng bậc thang, những nếp nhà sàn dựa lưng vào núi và chuyện kỳ bí về những báu vật của rừng khiến cho ta có cảm giác được về nhà. Thác Hiêu nước ầm ào chảy suốt ngày đêm, với lượng đá vôi lớn trong nước nên có thể biến cây thành đá.
Trải nghiệm đã qua trong các cuộc hành trình đến và trở về khiến nhiều người muốn quay lại những cung đường đầy bùn lầy, để ngắm nhìn ruộng bậc thang lúa chín vàng trong nắng chiều yên ả, cùng con người chân chất. Năm tháng trôi, những chuyến đi dài bồi đắp tâm hồn dày thêm mãi. Từ lúc trót yêu những cung đường, đứa con gái từng độc hành lên biên giới, có khi thêm người bầu bạn lọ mọ vào bản xa. Miền Tây Thanh Hóa vẫn là nỗi nhớ chơi vơi giữa cuộc sống bộn bề.
Theo VNE
Vẻ đẹp Púng Hon, truyền thuyết nơi thượng nguồn sông Mã Thượng nguồn con sông Mã hùng vĩ bắt nguồn từ con suối nhỏ Púng Hon, gắn liền với văn hóa đặc sắc của người Thái ở nơi phên dậu Mường Lèo, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. "Đến huyện Sông Mã rồi mà không lên thượng nguồn sông ở Sốp Cộp thì phí chuyến phiêu du vùng nam của Tây Bắc", người dân...