Thăng trầm nghề đàn Đào Xá
Từng nức tiếng xa gần với nghề làm đàn – nhạc cụ truyền thống đậm chất nhân văn, song Làng Đào Xá (xã Đông Lỗ, Ứng Hòa, Hà Nội) đang đứng trước nguy cơ “ thất truyền” bởi guồng quay của cuộc sống và gánh nặng “áo cơm”.
Nỗi lo thất truyền…
Từ xa xưa, Làng Đào Xá được biết đến là vù giàu bản sắc văn hóa bởi đây là cái nôi của nghề làm đàn. 30 năm về trước, nhân n nơi đây mưu sinh chủ yếu bằng nghề này. Đàn là nét đẹp văn hóa cổ truyền cũng là cái nghề “truyền đời” qua bao thế hệ. Nếu trước kia cả làng có tới 90% hộ theo nghề này thì nay con số ấy chỉ đếm trên đầu ngón tay, số người bám trụ được với nghề không nhiều bởi đa phần con em họ không còn thiết tha với cây đàn như trước. Những nghệ nhân trong làng hầu hết đều đã bước sang tuổi “thất thập cổ lai hy” nhưng còn đó nỗi đau đáu về sự thất truyền của nghề.
Nỗi trăn trở của ông Soạn khi không có con cháu nối nghiệp.
Thật đáng buồn cho một truyền thống văn hóa đangn trước guồng quay của thời cuộc. Nghề làm đàn làng Đào Xá cũng dần biến mất nếu không có sự bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống ngàn đời. Một trong những lý do khiến cho nghề không được ưa chuộng hiện nay là do sản phẩm làm ra không bán được, ít người biết sử dụng và thưởng thức, khó khăn trong vấn đề nhập nguyên liệu chế tác. Không đảm bảo mức sống thu nhập cho người hành nghề nên nhiều người n trong làng không còn trí thú với nghề như trước.
Ông Đào văn Soạn, 72 tuổi – một nghệ nhân làm đàn Đào Xá cười buồn: “Chỉ khoảng vài năm nữa có lẽ Đào Xá sẽ không giữ nổi nghề làm đàn. Trước đây, chỉ mất khoảng 2 triệu đồng thì có thể mua được hàng tạ gỗ “trắc” (một loại gỗ quý dùng làm đàn) thì giờ đây người làm đàn phải bỏ ra từ 8 – 10 triệu đồng cho việc lựa chọn nguyên liệu chế tác. Nhưng giá bán ra không cao mà hàng tháng trời không bán được chiếc nào. Thu nhập không đảm bảo mức sống cho người n nên số người bỏ nghề theo nghề khác ngày càng nhiều hơn”.
Nghề đòi hỏi tính kiên trì và sự khéo léo.
Theo tìm hiểu của chúng tôi, nghề làm đàn Đào Xá có từ lâu đời do ông tổ làng truyền lại. Ngày trước đây là “miếng cơm, manh áo” nuôi sống nhân n trong làng, nhưng nay nghề này không còn thịnh vượng.
Ông Soạn cho biết thêm: “Để làm được một cây đàn ưng ý cũng lắm công phu, đòi hỏi người thợ phải trải qua không biết bao nhiêu công đoạn, quan trọng nhất là sự tỉ mỷ, kiên nhẫn. Từ khâu chọn nguyên liệu, phơi gỗ, ra gỗ đến đánh bóng, trau chuốt và lắp ghép đều được làm một cánh cẩn thận, cầu kỳ và hoàn toàn thủ công. Đó cũng chính là nét độc đáo của làng nghề này. Nhưng thực tế hiện nay số người am hiểu về lĩnh vực này thưa thớt, và không ai còn thiết tha với cây đàn như xưa vì không thể sống được với nghề”.
Video đang HOT
Theo ông Soạn, để làm được một chiếc đàn hoàn chỉnh, phải mất ít nhất một tuần. Đàn làm xong phải cẩn thận tráng sơn sau đó khảm trai để trang trí họa tiết, hoa văn. Tuy nhiên, giá một cây đàn thì khó thể biết được vì nhiều khi hàng hóa ế ẩm, có khi cả tháng trời không bán được.
Nổi nênh … nghề đàn
“Có lẽ không giữ nổi nghề thật các chú ạ!” – Cái ý ” thật” trong câu nói của ông Soạn hàm chứa khát khao khôi phục làng nghề hay cái lắc đầu phó mặc nghịch cảnh? Ông cụ phân trần: “Tôi bám trụ với nghề này 30 năm nay nhưng mình còn không theo nổi huống chi thanh niên, họ không còn say mê với nghề nữa bởi suốt ngày ngồi lì một chỗ mà thu nhập không đủ miếng ăn, ai còn muốn làm”. Ông cụ nén tiếng thở dài.
Nghề làm đàn Đào Xá có từ thời Pháp thuộc và tồn tại cho đến ngày nay, trải qua biết bao thăng trầm. Trước kia hầu như cả làng Đào Xá, hộ gia đình nào cũng theo nghề này. Nhưng do không được đầu tư, thu nhập thấp, khó khăn trong đầu ra nên một số hộ đã bỏ nghề chuyển sang làm nghề khác.
“Nghề này thu nhập không cao, nếu không phải là người yêu nhạc cụ c, yêu nghề thì không thể làm được”, một thanh niên nói. Bên cạnh đó, nhạc c bây giờ không được nhiều người yêu thích nữa nên số lượng làm bán ra cũng giảm nhiều. Hiện trong làng, chỉ còn lác đác vài người yêu nghề mới có thể tiếp tục làm, mà chủ yếu làm đàn để… chơi.
Nhiều loại đàn làm xong không tiêu thụ được.
Mặc dù được nhà nước phong tặng danh hiệu làng nghề và nơi đây cũng sản sinh biết bao thế hệ nghệ nhân yêu đàn nhưng cuộc sống đổi thay, số người theo nghề chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Mân mê ngắm cây đàn, mắt nghệ nhân Đào Văn Soạn đượm buồn: “Thất truyền cũng phải chấp nhận thôi các chú ạ vì thanh niên không còn ai chí thú với nghề nữa. Mai này nếu chúng tôi có “nhắm mắt xuôi tay” thì có lẽ làng Đào Xá cũng dần mai một và đánh mất nghề”.
Nghề làm đàn Đào Xá đang trông đợi sự hỗ trợ, nỗ lực của nhà nước hòng tránh kết cục “xóa sổ” trong danh sách làng nghề chỉ trong ít năm nữa. Đó là nỗi trăn trở và băn khoăn không chỉ riêng ông Soạn mà của rất nhiều nghệ nhân trong làng thiết tha với nghề….
Theo Dân Trí
Kinh hãi ngôi làng ăn thịt lợn sống
Một ngôi làng ở Thái Bình, toàn là người Kinh, mà "xơi" thịt lợn sống. Ngôi làng này toàn... dị nhân?
Cách đây chừng 5 năm, nhà báo Nguyễn Như Phong, sau một chuyến công tác ở vùng ven biển thuộc tỉnh Thái Bình, ông đã lè lưỡi kể: "Hôm đó, tớ đi công tác, dự bữa cơm thân mật với người dân, họ đãi tớ món đặc sản. Món ăn bày ra mâm, nhìn thấy đĩa thịt lợn sống đỏ lòm giữa mâm cơm, tớ không nuốt nổi. Vậy mà, đám thanh niên làng, mấy bà, mấy cô, trẻ con, người già cứ luôn tay gắp nhai nhoanh nhoách những miếng thịt lợn sống. Dân ở đó toàn xơi thịt lợn sống trộn với thính câu cá. Hãi thật!".
Nhà báo Nguyễn Như Phong đi khắp thế giới, đặt chân đến khắp các vùng rừng rú, có nơi đồng bào dân tộc sống như thời nguyên thủy, thế nhưng, cuối cùng, ông lại hoảng sợ với một món ăn của người Kinh, ở một ngôi làng gần biển ở Thái Bình. Câu chuyện kể, với khuôn mặt nhăn nhó của nhà báo Nguyễn Như Phong khiến tôi nhớ mãi.
Băm thịt sống...
Trong đời làm báo, tôi đã từng xơi bọ xít, dế mèn, cào cào, châu chấu, bọ ve... món ăn đặc sản của người Thái ở Sơn La. Mấy món này tôi xơi đều đều, vì chiên mỡ giòn tan rồi.
Tôi cũng đã có không ít lần cùng các đồng nghiệp ở miền Tây, cụ thể là Cần Thơ, ăn món rắn ri voi, ri cá thế này: Con ri voi, ri cá to bằng bắp tay, cổ chân, nặng chừng 1-3kg, ngắn choẳn, chỉ độ nửa mét, màu xam xám, được một đồng nghiệp móc ra từ lồng, đem rửa thật sạch.
Bếp than hoa được thổi bùng bùng, nóng rực. Một anh cầm đầu rắn ri voi, ri cá, một anh cầm đuôi kéo thật căng, đặt lên thớt. Chiếc rựa vung lên, chém phầm phập, thành từng khúc một, mỗi khúc dài chừng 10cm. Nhìn cảnh máu me te tua mà hãi. Lòng phèo được moi ra.
Trộn với gia vị
Những khúc rắn được đặt lên bếp lửa, quạt điện quay vù vù, lửa bùng lên đốt những khúc rắn, mỡ cháy nổ lép bép. Chỉ chừng một phút, lớp da mỏng của rắn chín bong. Thế là, mỗi ông nhà báo một khúc gặm. Vừa gặm vừa chạm cốc. Kể ra thật hãi: thịt rắn vẫn trắng ởn, sống nguyên và máu đỏ vẫn dính ở xương. Đồng nghiệp ăn, tôi cũng ăn, và thấy thịt rắn sống quả là ngọt tận cuống họng!
Kinh hãi nhất có lẽ là lần tôi tận mắt, chụp ảnh, quay phim đầy đủ cảnh anh Ngô Văn Tùy ở đảo Lý Sơn xơi các loại đồ sống. Anh này thuộc hạng kỳ nhân, hoặc có thể gọi là người vượn tái thế. Bất cứ con gì sống, anh ta xơi được tất. Lúc đầu, xem anh ta ăn cá biển sống, tôi thấy bình thường, vì người Nhật, người Hàn đều xơi cá biển sống. Họ cứ tóm cá biển lên, thái lát thịt, chấm nước chanh hoặc mù tạt là ăn luôn.
Thế nhưng, lúc xem anh ta nhai rau ráu con rắn bù nặc, một loài rắn cực độc, nọc độc ngang hổ mang chì, khi nó còn đang sống ngo ngoe, thì quả tôi chóng cả mặt. Xơi rắn rồi, anh ta còn xơi chuột sống, giun sống, gián sống... Mấy người dân Lý Sơn đứng xem anh ta biểu diễn, cứ gọi là nôn ồng ộc.
Trở lại câu chuyện của nhà báo Nguyễn Như Phong, về một ngôi làng ở Thái Bình, người Kinh đàng hoàng, mà xơi toàn thịt lợn sống, cả làng xơi thịt sống, già trẻ gái trai, nam thanh nữ tú xơi thịt sống, thì tôi thấy, cái anh Ngô Văn Tùy kia cũng bình thường thôi. Bởi vì, ở cái làng đó, không phải một người đặc dị, mà cả làng cùng ăn thịt lợn sống. Phải chăng, ngôi làng này toàn... dị nhân!
Thế rồi, đúng là hữu duyên, trong một chuyến đi công tác, tôi lại về đúng cái làng mà nhà báo Nguyễn Như Phong từng được đãi một bữa thịt sống. Đó là làng Vị Thủy, thuộc xã Thái Dương (Thái Thụy, Thái Bình), nằm cách biển Đông không xa lắm. Và điều tình cờ hơn, là tôi lại về đó đúng vào ngày đẹp, có 2 đám cưới liền. Ở cái làng này, đám cưới, đám hỏi, đám ma, đều không thể thiếu được món thịt lợn sống. Quả là cơ hội ngàn vàng, được chứng kiến đầy đủ từ giai đoạn chế biến, đến cảnh người dân thi nhau xơi món ăn kinh dị.
Có thể nói, hiếm có ngôi làng nào đẹp như làng Vị Thủy. Làng nằm lọt giữa hai con sông. Con sông ở cuối làng đỏ nặng phù sa, là con sông cấp nước cho đồng ruộng, còn con sông ở đầu làng lại là sông thoát nước ra biển. Con sông này rộng mênh mang, nước xanh ngằn ngặt. Đường làng Vị Thủy thẳng tắp, cây cối bên đường xanh rờn, quả là thi vị.
...đã trở thành món đặc sản của làng.
Tiện về công tác, lại muốn tìm hiểu món thịt lợn sống, nên tôi được các nghệ nhân nấu ăn của làng Vị Thủy mời chứng kiến và xơi món ăn đặc sản của làng, không giống bất kỳ đâu ở đất nước này. Các nghệ nhân chế biến món thịt sống còn có ý "nhờ vả" tôi quay phim, chụp ảnh, giới thiệu cho cả nước biết đến món đặc sản thịt lợn sống có một không hai của làng.
Vậy là, tôi đã có dịp hiếm có, được tận mắt từ đầu đến đuôi, từ cảnh bác đồ tể cầm dao chọc tiết lợn, đến cảnh moi thịt sống ra băm, cho đến khi món thịt sống lên mâm cỗ và dựng tóc gáy với cảnh hàng trăm người, đủ cả già trẻ, lớn bé, nam thanh, nữ tú luôn tay gắp thịt sống cho vào miệng, nhai một cách ngon lành.
Theo GDVN
Những tuyệt tác từ gỗ và đá Ngày 1/4, triển lãm hương sắc, đ và gỗ Phú Yên đã diễn ra tại TP Tuy Hòa, hòa chung không khí chào mừng 400 năm Phú Yên và Năm du lịch Quốc gia 2011. Có hơn 100 sản phẩm từ đ và gỗ được trưng bày tại triển lãm. Nhiều tc phẩm rất đc đo thu hút đông đảo người xem như...