Thận trọng khi dùng kháng sinh quinolon
Tâm lý người sử dụng thuốc thường hướng tới những thuốc thế hệ mới, nhất là các thuốc kháng sinh (KS). Quinolon là những KS quan trọng có phổ tác dụng rộng trong điều trị nhiễm vi khuẩn hiếu khí gram âm và gram dương. Việc ra đời nhóm KS này đã đem lại hy vọng lớn lao để chiến đấu với các vi khuẩn nguy hiểm đang có xu hướng ngày càng đề kháng với các KS quen thuộc.
Người ta phân loại quinolon dựa vào đặc tính dược lý và theo thời gian phát hiện.
Các quinolon thế hệ 1:bao gồm các dẫn chất không gắn fluor, điển hình là acid nalidixic và cinoxacin có phổ kháng khuẩn hẹp chỉ được dùng trong điều trị nhiễm khuẩn đường tiết niệu – sinh dục không biến chứng. Acid nalidixic (negram) được phát hiện một cách tình cờ vào năm 1962 trong quá trình điều chế thuốc sốt rét cloroquin. Sau đó, người ta cũng đưa vào sử dụng một số thuốc tương tự như puram, purin, eracine… Hiện nay, việc sử dụng những thuốc này bị hạn chế do vi khuẩn kháng thuốc cao.
Không dùng kháng sinh quinolon cho trẻ em dưới 16 tuổi.
Các quinolon thế hệ 2:hay còn gọi là fluoroquinolon (FQ), đặc trưng bởi việc thêm nguyên tử fluor vào cấu trúc quinolon, được đưa ra thị trường từ nm 1985. Các thuốc thế hệ 2 bao gồm ciprofloxacin, enoxacin, grepafloxacin, lomefloxacin, norfloxacin và ofloxacin có dược lực học tiến bộ hơn thuốc thế hệ đầu và có tác dụng chống nhiều loại vi sinh vật gây nhiễm khuẩn gram âm và tác dụng toàn thân.
So với các quinolon thế hệ 1, các FQ có ít tác dụng phụ hơn và khắc phục được tình trạng vi khuẩn nhanh chóng kháng thuốc. Việc sử dụng trên lâm sàng bao gồm nhiễm khuẩn tiết niệu và viêm đài bể thận không biến chứng và có biến chứng, bệnh lây qua đường tình dục, viêm tuyến tiền liệt, nhiễm khuẩn da và mô mềm.
Video đang HOT
Một số thuốc điển hình như norfloxacin là thuốc đầu tiên thuộc nhóm này được đưa ra thị trường nm 1986 và có thời gian bán thải ngắn nhất trong số các FQ hiện có. Nói chung, thuốc được dành để điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu vì thuốc có sinh khả dụng đường uống kém. Ciprofloxacin là FQ có hiệu lực mạnh và xâm nhập tốt vào xương, do đó thuốc có thể thay thế cho các kháng sinh không dùng đường uống để điều trị viêm xương tủy do vi khuẩn nhạy cảm gây ra.
Ofloxacin là thuốc được bài xuất nguyên vẹn qua thận nhiều nhất. Ciprofloxacin và ofloxacin cũng là FQ thế hệ 2 có chỉ định rộng và có ở cả dạng uống, tiêm tĩnh mạch, tra mắt, nhỏ tai để điều trị viêm tai ngoài và viêm tai giữa. Hiện nay, ciprofloxacin và ofloxacin thường được dùng trong điều trị nhiễm lao phức tạp ở bệnh nhân AIDS và phối hợp với các thuốc khác trong điều trị lao kháng thuốc. Enoxacin tác động mạnh nhất đến chuyển hóa gan của các thuốc khác.
Các quinolon thế hệ 3: bao gồm gatifloxacin, levofloxacin, moxifloxacin và sparfloxacin. Levofloxacin là đồng phân levo và là thành phần hoạt động hơn của hỗn dược ofloxacin triệt quang (raxem). Các FQ thế hệ 3 có hoạt phổ rộng chống vi khuẩn gram dương, được chỉ định trong viêm phổi cộng đồng, viêm xoang cấp và đợt cấp của viêm phế quản mạn. Gatifloxacin cũng được cấp phép dùng điều trị nhiễm khuẩn tiết niệu và lậu. Cả gatifloxacin và levofloxacin đều có ở dạng uống và tiêm tĩnh mạch. Levofloxacin còn có ở dạng nhỏ mắt để điều trị viêm kết mạc do vi khuẩn.
Các quinolon thế hệ 4: bao gồm trovafloxacin, alatrofloxacin. Trovafloxacin là hoạt chất dùng đường uống, còn alatrofloxacin là tiền chất của trovafloxacin được dùng đường tĩnh mạch. Trovafloxacin có tác dụng rõ rệt chống vi khuẩn kị khí trong khi vẫn giữ được hoạt tính chống gram âm và gram dương của các FQ thế hệ 3. Chúng cũng có tác dụng tương đương ciprofloxacin. Trovafloxacin là kháng sinh uống đầu tiên dùng điều trị dự phòng cho bệnh nhân mổ vì nồng độ trong máu khi uống gần bằng khi tiêm. Nó được giới hạn sử dụng trong các nhiễm khuẩn nặng nguy hiểm tính mạng hoặc đe dọa phải cắt chi, do thuốc có thể gây những tác dụng phụ nặng trên gan.
Cần chú ý không kết hợp kháng sinh nhóm FQ với dùng kháng sinh tetracyclin. Các chất chống acid (trong bệnh loét dạ dày – tá tràng), sắt bổ sung và ngay cả các vitamin cùng với muối khoáng như kẽm và calci có thể gắn và làm giảm tới 90% sinh khả dụng đường uống của kháng sinh quinolon. Những thuốc có chứa cation hóa trị 2 và hóa trị 3 như sucralfat có chứa ion nhôm, viên didanosin chứa những chất đệm có ion nhôm và magiê đều làm giảm sinh khả dụng của ciprofloxacin và norfloxacin.
Các FQ có khá ít tác dụng phụ và độc tính. Tuy nhiên, do đã thấy những dị dạng sụn ở động vật non khi dùng quinolon ở liều lớn gấp nhiều lần liều dùng cho người, nên người ta khuyên không dùng thuốc cho trẻ em dưới 16 tuổi vì sợ ảnh hưởng có hại của thuốc đến sự phát triển của trẻ. Nói chung, không nên dùng thuốc KS nhóm quinolon cho trẻ em nếu không thật sự cần thiết. Chỉ sử dụng KS này cho trẻ nếu không còn sự lựa chọn nào khác để thay thế. Người ta cũng chú ý tới tình trạng đứt gân có liên quan tới những liệu trình FQ ngắn ngày. Bệnh nhân dùng quinolon nên tránh tập nặng trong khi điều trị và một vài tuần sau khi ngừng thuốc để phòng tránh tác dụng có hại này.
Theo Sức khỏe đời sống
Trái gấc giấu độc trong hạt
Một số người dân có thói quen khi sử dụng trái gấc, cất giữ lại hạt gấc sống hoặc đã qua nấu xôi để dành làm thuốc. Liệu hạt gấc có thần kỳ đến vậy không?
Khi dùng, có người chặt đôi hạt gấc ra, mài với ít rượu hoặc giấm thanh bôi mụn nhọt, quai bị... Số khác, giã nhân hạt gấc rồi hoà ít rượu đắp lên chỗ đau để chữa sưng vú, trĩ... Gần đây còn có một số bài thuốc khuyến khích sử dụng hạt gấc thay thế mật gấu.
Lượng beta-caroten của gấc cao gấp đôi càrốt, còn lycopen cao gấp 70 lần cà chua, nhưng đừng quên hạt gấc lại mang độc tính cấp LD50.
Cây gấc có danh pháp khoa học momordica cochinchinensis, thuộc chi mướp đắng, được tìm thấy chủ yếu tại Việt Nam. Hoa có sắc vàng. Quả hình tròn, sắc xanh, khi chín chuyển sang đỏ cam. Vỏ gấc có gai rậm. Bổ ra mỗi trái thường có sáu múi, thịt gấc màu đỏ cam, hạt màu nâu thẫm. Trái gấc được sử dụng trong ẩm thực lẫn y học. Gần đây, trái gấc cũng đã bắt đầu được xuất khẩu dưới dạng nước ép, dầu gấc... Bộ phận chủ yếu của gấc được dùng làm thuốc là màng, hạt, rễ...
Dược tính trong hạt gấc
Để chế thuốc, cần sấy hay phơi khô cả hạt và màng gấc (lớp cơm bao quanh hạt) cho đến khi cầm hạt không thấy dính tay nữa, tức đã se màng, thì lấy dao nhọn bóc lấy màng đỏ. Với màng này người ta dùng chế ra dầu gấc, mà thành phần chủ yếu là beta-caroten, lycopen, alphatocopherol... Beta-caroten khi vào cơ thể sẽ biến thành vitamin A. Lượng beta-caroten của gấc cao gấp đôi cà rốt.
Dầu gấc được cho là có chức năng phòng chống thiếu vitamin, tăng khả năng miễn dịch, tăng sức đề kháng cơ thể, chống oxy hoá, chống lão hoá tế bào, có tác dụng dưỡng da... Còn lại hạt với lớp vỏ đen cứng thì đem phơi khô để dành dùng làm thuốc. Nghiên cứu hiện đại cho biết trong nhân hạt gấc có 55,3% chất lipít (béo), 16,6% chất protit (đạm), 1,8% tanin, 2,8% xenluloza, 6% nước, 2,9% chất vô cơ, 2,9% đường, 11,7% chất khoáng... Ngoài ra còn có một lượng nhỏ các men photphotoba, invedaxa... Đông y gọi hạt gấc là mộc miết tử (ba ba gỗ) vì nó dẹt, hình gần như tròn, vỏ cứng, mép có răng cưa, hai mặt có những đường vân lõm xuống, trông tựa như con ba ba nhỏ. Nhân hạt gấc vị đắng, hơi ngọt, tính ôn, hơi độc, vào hai kinh can và đại tràng có tác dụng chữa mụn nhọt, tiêu thũng. Nó được dùng trong những trường hợp té ngã, bị thương, sang độc, sưng vú, sưng thũng hậu môn...
Thận trọng khi dùng đường uống
Cho đến nay, y học cổ truyền chưa có những khuyến cáo chính thức nào về việc không sử dụng hạt gấc trong các bài thuốc dùng đường uống. Các sách dược điển đông y chỉ dẫn cũng rất khác nhau. Một số sách như Cây thuốc dân gian Việt Nam, Cây thuốc nam phòng và chữa bệnh... lưu truyền các bài thuốc có sử dụng thành phần hạt gấc đều lưu ý chỉ dùng bôi ngoài. Một số tài liệu còn căn dặn không nên dùng hạt gấc cho bệnh thuộc về nội chứng (chứng bệnh ở phần trong thân thể). Tuy nhiên, cũng có những tài liệu như Cây thuốc quý, Những bài thuốc dân gian nổi tiếng... lại hướng dẫn hạt gấc có thể dùng uống, mỗi ngày uống một nhân nướng chín.
Mới đây, khoa dược đại học Y dược TP.HCM đã có một nghiên cứu khoa học về thành phần dược tính của cao lỏng hạt gấc, trong đó xác định độc tính cấp LD50 (liều dùng hạt gấc khi cho chuột uống sẽ làm 50% bị chết), rất quan trọng để người bệnh và thầy thuốc lưu tâm khi sử dụng hạt gấc làm thuốc. Theo đó, dùng dưới liều 20g/kg không làm chuột chết, còn dùng trên 180g/kg tất cả chuột đều chết. LD50 tính bằng phương pháp Behrens và Karber là 92,27g bột hạt gấc/kg. Kết quả nghiên cứu này tuy chưa thật sự toàn diện nhưng đã chứng minh nhận định hạt gấc có độc trong các sách thuốc đông y là có cơ sở. Mà đã có độc tính thì không thể muốn dùng bao nhiêu cũng được. Dùng bôi ngoài, liều lượng chỉ nên 2 - 4g/ngày, khi dùng phải nướng chín hạt. Mọi người cần tránh sử dụng hạt gấc làm thuốc dùng trong qua đường uống một cách bừa bãi, chưa có sự tư vấn của thầy thuốc, vì có thể ngộ độc.
Lycopen của trái gấc cao gấp 70 lần cà chua Lycopen có nhiều trong trái cây có màu đỏ như cà chua, đu đủ, càrốt, ổi ruột đỏ... Đặc biệt trong trái gấc, hàm lượng lycopen đã được kết luận cao gấp 70 lần cà chua. Một số nghiên cứu dịch tễ học của Mỹ về tác dụng của lycopen cho thấy ở những vùng người dân ăn nhiều loại trái có chứa lycopen thì tỷ lệ ung thư ống tiêu hoá (dạ dày, trực tràng, kết tràng...) thấp hơn những vùng người dân ăn ít hoặc không ăn. Tỷ lệ chết vì ung thư cũng giảm tới 50%. Trong một nghiên cứu kéo dài 12 năm trên một nhóm đối tượng ăn ít nhất hai lần nước xốt cà chua/tuần, cho thấy nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt giảm 35%. Tác dụng này còn mạnh hơn ở những người ung thư đang tiến triển. Lycopen còn có tác dụng trong điều trị bệnh viêm gan, xơ gan, hạ huyết áp, rối loạn lipid máu, chống khô mắt, mờ mắt...
Theo SGTT
Những kiêng kỵ khi dùng nhân sâm Nhân sâm là vị thuốc quý, được Đông y xếp vào loại "thượng phẩm", nghĩa là những vị thuốc cho tác dụng bổ và không có độc tính, song không phải ai dùng cũng hiệu quả. Đông y dùng sâm trong các trường hợp chân khí kém, gây ra trạng thái mệt mỏi, vô lực của cơ thể hoặc các trường hợp kém...