Tham vọng vô lối, nỗ lực ngoại giao của Trung Quốc đã không thành công
Một tác giả mạng Trung Quốc với hàng trăm bài viết uyên thâm về các vấn đề quốc tế khác nhau, dưới bút danh Lê Oa Đằng đã viết mấy chục bài phê phán hành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế và mưu đồ độc chiếm biển Đông của giới cầm quyền Trung Quốc.
Trên diễn đàn mạng Trung Quốc, các trang blog của học giả Lê Oa Đằng (http://blog.sina.com.cn/dddnibelungen, http://dddnibelungen.wordpress.com/, http://dddnibelungen.blog.163.com/) là địa chỉ rất đông người vào đọc và bình luận (riêng blog trên mạng Sina có 3.957.096 người, tính đến ngày 14/6).
Mới đây, học giả Lê Oa Đằng cho đăng bài “Trung Quốc cần xem xét lại sách lược tuyên truyền đối ngoại”, cho rằng nỗ lực tấn công ngoại giao của Trung Quốc không những không thành công mà hình ảnh Trung Quốc còn xấu thêm qua vấn đề Biển Đông.
Bài báo viết: Trong hơn 1 năm qua, Trung Quốc đã tiến hành “tiến công dư luận quy mô rất lớn” với 4 nội dung: Phê phán Nhật là “quỷ mai phục” trên quốc tế; tuyên truyền Trung Quốc là “Sư tử văn minh, thân thiện dễ gần”; đưa ra mô hình “Cộng đồng cùng chung vận mạng” với các nước Đông Nam Á; đề xuất học thuyết Monro kiểu Trung Quốc “Việc của châu Á do người châu Á tự giải quyết”.
Tuy nhiên, tại Diễn đàn Shangri La 2014 này người ta có thể thấy rõ nỗ lực tấn công ngoại giao của Trung Quốc không những không thành công mà hình ảnh Trung Quốc còn xấu thêm qua vấn đề Biển Đông.
Xét từ phản ứng của các đại biểu dự hội nghị, sự tán đồng với phát biểu của Thủ tướng Nhật Abe và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Hagel vượt xa so với Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Vương Quán Trung. Nhiệm vụ của đại biểu Trung Quốc đã không thành công: Trung Quốc không thuyết phục được đại biểu nước khác, thậm chí không làm rõ thêm được lập trường của mình về Đường 9 đoạn đang “ nóng” nhất.
Suy cho cùng vấn đề cốt lõi là Trung Quốc có muốn giải quyết tranh chấp về lãnh thổ và lãnh hải với các nước láng giềng trên cơ sở luật quốc tế hay không. Không muốn giải quyết các bất đồng bằng luật quốc tế chính là nguyên nhân căn bản khiến Trung Quốc thường xuyên ở thế bên dưới trong cộng đồng quốc tế và dư luận quốc tế. Anh cứ nói mình có lẽ phải, nhưng lại không chịu tranh luận đàng hoàng với người khác thì sao có thể nói lẽ phải thuộc về mình được?
Trong một bài khác có nhan đề “Đường 9 đoạn mới là vấn đề trung tâm của biển Đông”, học giả Lê Oa Đằng đã phê phán mạnh mẽ quan điểm coi Đường 9 đoạn là đường biên giới trên biển của Trung Quốc. Ông viết: Ban đầu, năm 1947, khi Trung Quốc lần đầu vẽ những cái vạch đứt đoạn này lên bản đồ của mình không hề công bố gì về ý nghĩa của nó, có lẽ để mô tả các đảo bên trong đó là thuộc về Trung Quốc chứ không thuộc các quốc gia láng giềng.
Sau khi Công ước LHQ về Luật Biển 1982 ban hành, nhất là những năm 1990, tình hình đột nhiên thay đổi. Đầu tiên vào năm 1993, Đài Loan định nghĩa Đường 9 đoạn là “vùng nước lịch sử’ thuộc vùng biển do họ quản lý. Dĩ nhiên lập luận này dấy lên tranh cãi rất lớn trên trường quốc tế. Do áp lực quốc tế, khi đề ra “Luật lãnh hải”, Đài Loan buộc phải từ bỏ luận điểm này. Cuối những năm 1990, Trung Quốc cũng bắt đầu mở rộng nội hàm của Đường 9 đoạn.
Có người nói Trung Quốc có quyền lợi lịch sử với vùng nước phía bên trong nó; lại có người gọi nó là “đường cương vực trên biển”; thậm chí có người đề xuất bên trong Đường 9 đoạn là lãnh hải hoặc nội hải của Trung Quốc. Các kiểu giải thích mở rộng về Đường 9 đoạn đó lập tức gây sự chú ý của cộng đồng quốc tế. Đó chính là nguyên nhân căn bản khiến tranh cãi về Đường 9 đoạn trở thành vấn đề căn bản của Biển Đông.
Nếu coi Đường 9 đoạn như theo cách nói của một số chuyên gia Trung Quốc cực đoan, là lãnh hải thì vùng nước, đáy biển và vùng trời bên trong cái đường đó bỗng biến thành của riêng Trung Quốc, cũng tức là Trung Quốc bá chiếm hầu như toàn bộ Biển Đông. Các nước từ xưa đến nay luôn được tự do hàng hải trên biển nay bị đe dọa rất lớn; quyền lợi nghề cá và quyền khai thác dầu khí ở thềm lục địa của các nước xung quanh không còn nữa. Lợi ích của các nước liên quan đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thử hỏi có quốc gia nào chấp nhận cách làm bá đạo như thế?
Đồng thời với việc mấy năm qua ra sức cổ súy chiến lược cường quốc biển, ngày càng nhiều “chuyên gia” bắt đầu rêu rao mạnh việc Trung Quốc có quyền lợi lịch sử ở biển Đông. Hiệu quả tạo thế ở trong nước rất rõ. Hiện nay các bài trên rất nhiều tờ báo Trung Quốc đều coi Đường 9 đoạn là lãnh hải Trung Quốc. Thậm chí mới đây, một người là Uất Chí Vinh còn công khai tuyên bố Đường 9 đoạn là đường quốc giới, khiến các nước ngạc nhiên. Còn chính phủ Trung Quốc thì vừa cổ vũ phát biểu quá khích của các chuyên gia, vừa tìm các từ ngữ định nghĩa mập mờ về Đường 9 đoạn, mặt khác triển khai quy mô lớn cái gọi là “duy trì quyền lợi” ở Biển Đông. Điều đó khiến các nước rất lo ngại về mục tiêu của Trung Quốc.
Điều lo ngại lớn nhất của họ là: Chính phủ Trung Quốc cố ý trì hoãn không đưa ra định nghĩa về Đường 9 đoạn, nhưng trên thực tế lại không ngừng thực hiện khống chế thực tế Biển Đông, đợi đến khi đủ năng lực gạt quốc tế sang một bên mới tuyên bố Biển Đông thuộc về Trung Quốc, cuối cùng đạt tới mục tiêu coi Đường 9 đoạn là lãnh hải của mình. Các nước trên thế giới không phải là kẻ ngốc. Trung Quốc có trỗi dậy hòa bình hay không, không ở chỗ Trung Quốc nói, mà là ở việc làm thế nào.
Học giả Lê Oa Đằng thẳng thắn bày tỏ: “Tôi cho rằng, cách làm đó của Trung Quốc là vô trách nhiệm, đi ngược lại chính sách hòa mục láng giềng do chính mình đề xướng”.
Trong bài viết: “Tháng 5, sự cáo chung của Cộng đồng chung vận mạng” đăng ngày 30/5, học giả Lê Oa Đằng viết: Bản chất của vấn đề Nam Hải (Biển Đông) là mâu thuẫn giữa Trung Quốc và các nước láng giềng về lãnh hải và lãnh thổ chứ không phải là “vấn đề giữa Mỹ và Trung Quốc” như Trung Quốc rêu rao.
Học giả Lê Oa Đằng kết luận: Dù là vấn đề biển Hoa Đông hay Biển Đông, mâu thuẫn bản chất nhất, cốt lõi nhất chính là: Một quốc gia hiện đại ở vào thế kỷ 21 sẽ lựa chọn giải quyết vấn đề bằng phương thức sử dụng vũ lực lỗi thời, dã man, đơn phương, hay là phương thức trọng tài quốc tế tuân thủ luật pháp quốc tế, văn minh và hợp trào lưu phát triển lịch sử đây? Đó là câu hỏi dành cho Chính phủ Trung Quốc.
Nếu Việt Nam cũng chọn giải quyết vấn đề bằng con đường pháp luật, sẽ là điều khó xử lớn nhất đối với Trung Quốc vì nếu cứ cự tuyệt mãi phương thức văn minh để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia như thế thì liệu Trung Quốc có phải là “Con Sư tử văn minh” như lời ông Tập Cận Bình nói hay không?
Video đang HOT
Theo Nguyễn Chiến
Chinhphu.vn
Con đường dẫn đến sự kiện đảo Gạc Ma
So với trận hải chiến Hoàng Sa, thì trận cưỡng đoạt Trường Sa năm 1988 được chuẩn bị và toan tính kỹ hơn, Trung Quốc chọn đúng thời điểm tình hình Việt Nam đang gặp khó khăn.
Rắp tâm của Trung Quốc
Ngày 30/4/1975, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, đất nước Việt Nam liền một mối, bước vào giai đoạn tái thiết, tổ chức thống nhất hai miền Nam - Bắc.
Dù bộn bề với bao việc phải làm sau chiến tranh, vấn đề bảo vệ chủ quyền với Hoàng Sa vẫn được đặt lên hàng đầu và được quan tâm đặc biệt.
Ngày 9/9/1975, tại Hội nghị Khí tượng Á châu ở Colombo, đại diện Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam yêu cầu giữ nguyên đăng ký vào hệ thống SYNOP của OMM đài khí tượng của Việt Nam đặt tại quần đảo Hoàng Sa dưới danh số 48860.
Những chiến sĩ hải quân đã tham gia bảo vệ đảo Trường Sa năm 1988
Ngày 24/9/1975, tại cuộc gặp gỡ phái đoàn của Đảng và Nhà nước Việt Nam do Tổng bí thư Lê Duẩn dẫn đầu, ông Đặng Tiểu Bình lúc này là phó chủ tịch Đảng Cộng sản kiêm phó thủ tướng Trung Quốc thừa nhận giữa hai nước còn tồn tại vấn đề Tây Sa và Nam Sa (tức Hoàng Sa và Trường Sa). Đặng Tiểu Bình hứa hẹn: " Vấn đề sẽ được đưa ra giải quyết trong tương lai".
Ngày 10/11/1975, Bộ ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi đến Bộ Ngoại giao Trung Quốc công hàm nhắc lại tuyên bố ngày 24/9 của Đặng Tiểu Bình và đề nghị ngưng tuyên truyền liên quan đến tranh chấp về các quần đảo nhằm tạo không khí thuận lợi cho việc thương thảo.
Tuy nhiên trong công hàm trả lời ngày 24/12/1975, Bộ ngoại giao Trung Quốc bác bỏ đề nghị này.
Ngày 3/12/1975, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc Kinh khẳng định với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Trung Quốc chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 5/6/1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố Việt Nam sẽ giành quyền bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 2/7/1976, sau cuộc tổng tuyển cử thống nhất đất nước, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời.
Ngày 12/5/1977, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố Tuyên ngôn về vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh đến chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 7/10/1977, Việt Nam và Trung Quốc có cuộc họp đàm phán về biên giới. Trưởng đoàn Việt Nam Phan Hiền đề nghị đăng ký thảo luận về quần đảo Hoàng Sa đang bị Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974, trưởng đoàn đàm phán Trung Quốc Hàn Niệm Long từ chối.
Pháo 37 ly của TQ bắn thẳng vào bộ đội công binh VN trên biển
Tháng 9 và tháng 10 năm 1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng lần lượt đi thăm hai nước Philipines và Malaysia, ký thỏa thuận với Tổng thống và Thủ tướng hai nước để giải quyết các tranh chấp trên biển Đông bằng biện pháp hòa bình.
Giai đoạn này quan hệ giữa hai nước ngày càng căng thẳng. Trung Quốc từ chỗ thừa nhận Hoàng Sa là "vấn đề tranh chấp" sang hẳn luận điểm "Hoàng Sa là của Trung Quốc, không cần tranh cãi".
Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đưa 600.000 quân tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam. Sau hai tuần bị thiệt hại nặng nề, Trung Quốc rút quân.
Ngày 15/3/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng về biên giới Việt - Trung, trong đó bao gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 3/7/1979, cơ quan hàng không dân dụng Trung Quốc thiết lập 4 vùng nguy hiểm trong không phận Tây Sa (tức Hoàng Sa) với ý đồ buộc quốc tế phải thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa.
Ngày 7/8/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố bác bỏ hoàn toàn ý đồ xuyên tạc của Trung Quốc.
Ngày 8/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố tài liệu xác minh chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 25/3/1980, Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên đảo An Bang cũng như quần đảo Trường Sa.
Ngày 4/2/1982, chính phủ Việt Nam thành lập huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 9/12/1982, chính phủ Việt Nam lập huyện Trường Sa. Đến ngày 28 tháng 12 năm 1982, chính phủ Việt Nam quyết định huyện Trường Sa được nhập vào tỉnh Phú Khánh.
Năm 1984, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản đối Trung Quốc tuyên bố thành lập vùng hành chính tỉnh Hải Nam bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Từ ngày 16/5 đến 6/6/1987, hải quân Trung Quốc thao diễn trong vùng tây Thái Bình Dương và Nam biển Đông, gần quần đảo Trường Sa.
Ngày 10/11/1987, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Louisa trên quần đảo Trường Sa...
Trung Quốc chọn thời điểm
Nhiều tài liệu, bài báo gọi sự kiện Trung Quốc dùng tàu chiến, pháo hạm quân sự tấn công ngày 14/3/1988 là "cuộc hải chiến Trường Sa". Tuy nhiên, chuẩn đề đốc Lê Kế Lâm và một số học giả quốc tế nghiên cứu về biển Đông cho rằng, gọi là "hải chiến" hoàn toàn không chính xác. Bởi khi đó, lực lượng của Việt Nam trên các đảo Cô Lin, Len Đao và Gạc Ma là công binh, không có vũ khí. Và các tàu của Việt Nam làm nhiệm vụ trong khu vực là tàu vận tải, không có vũ khí.
Tàu vận tải của VN bị pháo TQ bắn dữ dội và chìm sau đó
Trung Quốc đã sử dụng vũ khí từ súng và pháo trên các tàu chiến bắn vào bộ đội công binh và tàu vận tải của Việt Nam.
Theo tài liệu giải mật của cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ (CIA), Trung Quốc đã chọn thời điểm dư luận thế giới đang tập trung vào giải pháp chính trị ở Campuchia. Liên Xô, đồng minh quan trọng của Việt Nam đang sa lầy ở Apganistan, đang nối lại quan hệ với Trung Quốc nên không muốn dính líu rắc rối gì với Trung Quốc.
Trước khi ra tay hành động, một đoàn ngoại giao Trung Quốc đã đến các nước có liên quan đến biển Đông khẳng định "lập trường hòa bình" và tuyên bố Trung Quốc chỉ "tranh chấp" đảo với Việt Nam, Trung Quốc không hề có "tranh chấp" nào khác với các nước khác!
Đầu năm 1988, lần đầu tiên hải quân Trung Quốc tới một số đảo trên quần đảo Trường Sa. Cụ thể, ngày 31/1/1988 chiếm bãi đá Chữ Thập; ngày 18/2/1988 chiếm bãi Châu Viên; ngày 26/2/1988 chiếm bãi Ga Ven; ngày 28/2 chiếm bãi Tư Nghĩa.
Trước tình hình Trung Quốc chiếm đóng hàng loạt đảo trên Trường Sa, Việt Nam đã khẳng định chủ quyền trên các đảo còn lại trên các đảo Gạc Ma, Cô Lin, Len Đao.
Trung Quốc, sau khi chiếm hàng loạt đảo, đầu tháng 3/1988 đã huy động lực lượng của hai hạm đội tiếp tục mở rộng lấn chiếm, tăng số tàu chiến từ 9 lên 12 tàu gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ pháo, 2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu kéo và 1 pông tông lớn.
Sáng ngày 14/3/1988, 4 tàu chiến Trung Quốc tiến đến bãi Gạc Ma. 6 giờ sáng Trung Quốc đổ bộ 40 quân lên đảo, xông lên giật cờ Việt Nam cắm trên đảo. Các chiến sĩ hải quân Việt Nam đang bảo vệ cờ Tổ quốc đã bị đâm bằng lưỡi lê và bắn chết gồm hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh, thiếu úy Trần Văn Phương...
Lực lượng công binh, hải quân dù tay không vẫn cương quyết bảo vệ cờ. Trung Quốc đã huy động hai chiến hạm bắn thẳng vào lực lượng bảo vệ đảo và tàu vận tải 604 đang neo đậu. Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và một số chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Tàu 604 bị chìm.
Tại đảo Cô Lin (cách Gạc Ma 3,5 hải lý) và Len Đao, Trung Quốc tấn công quyết liệt ngay từ 6 giờ sáng ngày 14/3, bắn cháy tàu HQ 505 và sát hại nhiều chiến sĩ đang giữ đảo. Ở hướng Len Đao, 8 giờ 20 phút ngày 14/3, tàu chiến Trung Quốc bắn cháy tàu HQ 605 của Việt Nam.
Cuộc thảm sát kéo dài 28 phút đã gây thiệt hại nặng cho Việt Nam, 3 tàu bị bắn cháy và chìm, 3 chiến sĩ hy sinh, 11 chiến sĩ bị thương và 74 chiến sĩ mất tích. Sau này Trung Quốc trả lại 9 chiến sĩ bị bắt. Số còn lại được xem là đã hy sinh.
Việt Nam đã phản đối gay gắt. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục mở rộng không ngừng lấn chiếm thêm một số đảo nữa sau đó và huy động nhiều tàu đánh cá từ Quảng Châu đến hoạt động khai thác tại ngư trường Trường Sa.
Ngày 28/ 4/1990, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội, phản đối việc Trung Quốc đã cho quân lính xâm chiếm bãi Én Đất trên quần đảo Trường Sa.
Tháng 8/1990, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đề nghị tiến hành khai thác chung khu vực quần đảo Trường Sa.
Ngày 1/12/1990 trong cuộc đi thăm Philippines, Thủ tướng Lý Bằng nói: "Chúng ta có thể tìm ra một giải pháp thích hợp đối với vấn đề Trường Sa với các bên hữu quan vào lúc thích hợp, nếu không phải là vào lúc này. Tôi nghĩ chúng ta có thể gác lại vấn đề này và không để nó gây trở ngại trong quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng hữu quan".
Như vậy, Hoàng Sa và Trường Sa của VN bị mất trong hai giai đoạn mà về danh nghĩa chính quyền quản lý đang là đồng minh của một trong hai siêu cường lớn nhất của thế kỷ 20. Các siêu cường đồng minh đều "bắt tay" với TQ để cho TQ ra tay thô bạo, thậm chí vô cùng tàn bạo như trên bãi Gạc Ma.
Tháng 3/2013, mạng Sina.com mở chuyên đề "Chiến đấu bảo vệ chủ quyền" ca ngợi quân đội Trung Quốc đã biết "nắm bắt thời cơ" để "đập tan sự ngỗ ngược của Việt Nam". Dẫn lời tướng Nhạc Cương, Sina.com mạnh miệng tuyên bố: "Các cuộc đụng độ giữa Trung Quốc và Việt Nam cho thấy xu hướng không can thiệp của các nước lớn khi quyền lợi của họ không bị đụng chạm. Trung Quốc cần phải tận dụng và phát huy!".
(Còn nữa)
Theo Duy Chiến
Vietnamnet
Trung Quốc xây dựng ở Gạc Ma: Bước đi cực kỳ nguy hiểm! "Trung Quốc xây dựng ở đảo Gạc Ma cho thấy mục đích khống chế toàn bộ khu vực này. Nếu đó là hoạt động quân sự thì là bước đi phiêu lưu hết sức nguy hiểm", ông Lê Việt Trường - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng - An ninh Quốc hội nói. Bên lề kỳ họp Quốc hội, ông Lê Việt...