Tham vọng dùng nam châm diệt tàu ngầm Liên Xô của NATO
NATO từng có tham vọng thả hàng loạt khối nam châm để phát hiện và vô hiệu hóa tàu ngầm Liên Xô.
Tàu ngầm Liên Xô là nỗi sợ hãi cho hải quân các nước NATO. Ảnh: National Interest.
Vào thời kỳ cao điểm của Chiến tranh Lạnh, Liên Xô sở hữu hàng trăm tàu ngầm đầy uy lực, buộc các nhà hoạch định phương Tây làm mọi cách để đối phó. Một trong những ý tưởng ngớ ngẩn nhất là “bom nam châm nhẹ”, nhằm tăng khả năng phát hiện tàu ngầm Liên Xô và khiến chúng mất khả năng hoạt động, theo National Interest.
Sử gia Steve Weintz cho biết vào cuối những năm 1940, công nghệ thu được từ Đức giúp Liên Xô hoàn thiện hạm đội tàu ngầm mạnh và hiện đại, đủ sức đe dọa các tuyến hàng hải của NATO. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962, Liên Xô đã sở hữu lực lượng tàu ngầm lớn nhất thế giới với khoảng 300 tàu ngầm diesel-điện và hạt nhân.
Sức mạnh hạm đội dưới nước của Liên Xô vượt trội hoàn toàn so với NATO. Điều này buộc phương Tây tìm kiếm mọi giải pháp để đối phó với tàu ngầm Liên Xô. Một nhà khoa học Canada đề xuất giải pháp chế tạo thiết bị gây tiếng ồn dưới biển, với thành phần chính là cụm nam châm có khả năng bám dính lên vỏ kim loại của tàu ngầm Liên Xô để khiến chúng dễ bị phát hiện hơn.
Khối nam châm này sẽ không bám chặt vào thân tàu, mà chỉ dính một cách lỏng lẻo. Chuyển động trong nước sẽ làm nam châm đập vào thân tàu, gây tiếng ồn lớn và làm lộ vị trí. Thiết bị này đơn giản, nhưng đòi hỏi nhiều thời gian và nỗ lực để tháo bỏ. Nó có thể làm giảm khả năng sẵn sàng chiến đấu của biên đội tàu ngầm Liên Xô.
Cuối năm 1962, hải quân Anh đưa tàu ngầm diesel HMS Auriga tới Canada để tham gia huấn luyện chống ngầm với hải quân nước này. Anh từng giúp Canada thành lập lực lượng tàu ngầm, nên hai nước thường tổ chức tập trận chung.
Chiếc Auriga cũ kỹ dành phần lớn thời gian để mô phỏng tàu ngầm diesel Liên Xô trong bài tập tác chiến chống ngầm với lực lượng Mỹ và Canada. Trong một lần tập trận kéo dài ba tuần, HMS Auriga trở thành mục tiêu cho các tàu chiến mặt nước, máy bay và tàu ngầm khác, bao gồm cả tàu ngầm hạt nhân mới của hải quân Mỹ.
Trong cuộc tập trận này, Auriga bị tấn công bằng bom nam châm. Một máy bay tuần tra Canada đã thả lượng lớn nam châm xuống vị trí HMS Auriga hoạt động. Biện pháp này có vẻ kỳ dị, nhưng lại có hiệu quả đáng ngạc nhiên. Những khối nam châm bám vào tàu Auriga, gây hàng loạt tiếng va đập loảng xoảng, tất cả đều được nhận dạng trên hệ thống định vị thủy âm (sonar) của lực lượng tập trận. Tuy nhiên, sau đó hàng loạt vấn đề xảy ra.
HMS Auriga là tàu ngầm đầu tiên trúng bom nam châm. Ảnh: National Interest.
Khi HMS Auriga nổi lên vào cuối đợt tập trận, các nam châm đã lọt vào những lỗ hổng và rãnh nước trên vỏ tàu. Chúng nằm ở khắp mọi nơi và không thể được loại bỏ trên biển. Sau nhiều tuần nằm trong xưởng cạn ở Halifax, những khối nam châm mới được tháo hết, khiến hải quân Anh tiêu tốn nhiều chi phí và nhân lực.
Video đang HOT
Bom nam châm cũng đem lại kết quả tương tự với tàu ngầm Liên Xô, buộc nhiều chiếc phải quay trở về cảng, thay vì hoàn thành nhiệm vụ tuần tra. Nhưng vì sở hữu hạm đội tàu ngầm khổng lồ, việc thiếu hụt một số tàu không phải là vấn đề quá lớn đối với Liên Xô.
Nhưng NATO thì không có lợi thế như đối thủ. Các kíp săn ngầm không thể luyện tập với mục tiêu trúng bom nam châm. Họ cũng không có đủ tàu để thực hiện những cuộc tập trận tốn kém như vậy. Ý tưởng bom nam châm hoạt động chính xác như dự định, nhưng nó không phù hợp để triển khai trên quy mô lớn. Kết quả là dự án bị hủy chỉ sau vài lần triển khai.
Việt Hòa
Theo VNE
Sát thủ diệt ngầm nhanh nhất thế giới khiến Mỹ "khiếp vía"
Tàu ngầm tấn công hạt nhân siêu nhanh lớp Lyra của Liên Xô từng là nỗi khiếp sợ của hải quân phương Tây và Mỹ vì các vũ khí thời đó hoàn toàn không thể đánh trúng tàu ngầm "sát thủ" này.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra sở hữu nhiều tính năng vượt trội mà các tàu ngầm ngày nay vẫn chưa thể sánh bằng.
Theo National Interest, Chiến tranh Lạnh bắt đầu là lúc Liên Xô tụt hậu khá xa so với Mỹ về công nghệ tàu ngầm.
Mặc dù Liên Xô đã nắm trong tay nhiều loại tàu ngầm Đức sau Thế chiến 2 kết thúc, Mỹ vẫn đi trước nhờ kinh nghiệm và năng lực trong những trận hải chiến lịch sử ở Thái Bình Dương.
Kết hợp với ưu thế về công nghệ, Mỹ đạt bước tiến nhảy vọt về khả năng đóng tàu ngầm, đặc biệt là tàu ngầm hạt nhân, trong 2 thập kỷ đầu tiên của Chiến tranh Lạnh.
Những mẫu tàu ngầm hạt nhân Liên Xô đầu tiên phải đối mặt với thách thức lớn từ phương Tây bởi khả năng tàng hình và độ tin cậy chưa cao. Sau vài thiết kế mang lại kết quả, Liên Xô lựa chọn phát triển lĩnh vực mà tàu ngầm Mỹ chưa bao giờ đạt đến.
Điều đó có nghĩa là tàu ngầm phải di chuyển nhanh hơn, lặn sâu hơn các tàu ngầm phương Tây. Thiết kế tàu ngầm cũng phải nổi trội và tích hợp công nghệ cao.
Kết quả là tàu ngầm lớp Projet 705 Lyra (NATO định danh là Alfa), còn có biệt danh "Cá vàng", ra đời. Đây là loại tàu ngầm hạt nhân với chức năng tấn công/săn ngầm của Liên Xô, được cục Thiết kế Malakhit ở Saint Petersburg nghiên cứu phát triển từ năm 1960 và bắt đầu đi vào phục vụ từ năm 1971.
Vỏ tàu được làm bằng hợp kim titanium để chịu được ma sát khi tàu đạt đến tốc độ hơn 80 km/giờ.
Theo chuyên gia Robert Farley, phó giáo sư tại Trường Ngoại giao và Thương mại quốc tế Patterson (Mỹ), sự xuất hiện của lớp tàu ngầm Lyra đã giúp Liên Xô đạt được đồng thời nhiều mục tiêu.
Thứ nhất, Liên Xô nắm trong tay loại vũ khí mạnh mẽ, đủ sức làm thay đổi cán cân quân sự ở Bắc Đại Tây Dương và Bắc Cực, thậm chí chấm dứt sự thống trị của hải quân phương Tây.
Loại tàu ngầm Lyra đặc biệt nguy hiểm vì nó được chế tạo chỉ riêng cho mục đích săn tàu ngầm và nhóm tác chiến tàu sân bay đối phương.
Thứ hai, Liên Xô chứng minh tiến bộ trong công nghệ đóng tàu, sở hữu công nghệ mà các tàu ngầm sau này vẫn phải học hỏi. Thứ ba, hải quân NATO và Mỹ buộc phải đầu tư tiền bạc và công sức để tìm cách hóa giải mối đe dọa từ tàu ngầm Lyra.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra dài 81,4 mét, rộng 9,5 mét và cao 6,9 -7,6 mét, lượng giãn nước khi nổi là 2.300 tấn, khi chìm là 3.200 tấn. Động cơ chính của tàu là một lò phản ứng hạt nhân làm mát bằng kim loại lỏng OK-550 hoặc BM-40A có công suất 155 MW. Ngoài ra trên tàu còn một động cơ tua bin khí dự phòng với công suất 30 MW.
Vỏ tàu được làm bằng hợp kim titanium để giảm khối lượng và độ dày, qua đó giảm thiểu độ ma sát nhằm giúp tàu đạt được tốc độ cao nhất có thể.
Tàu chỉ có 31 thành viên thủy thủ đoàn nhờ vào việc tự động hóa nhiều hệ thống quan trọng, giúp tăng khả năng phản ứng khi chiến tranh nổ ra. Tuy vậy, nếu gặp phải trục trặc tàu ngầm Lyra sẽ mất nhiều thời gian hơn để bảo dưỡng và sửa chữa.
7 tàu ngầm Lyra đều được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Để đạt tốc độ cao, tàu ngầm Lyra được trang bị tính năng đặc biệt, giúp làm mát lò phản ứng hạt nhân một cách nhanh chóng. Từ đó, tàu có thể sử dụng một lượng lớn năng lượng trong môi trường hạn chế. Nhược điểm là đội ngũ thủy thủ trên tàu sẽ khó có thể sửa chữa ngay trên biển nếu lò phản ứng gặp trục trặc.
Có thể nói, tàu ngầm hạt nhân Lyra có những tính năng mà không một tàu ngầm nào khác có thể sánh bằng. Tàu lặn sâu tới 800 mét, sâu hơn bất kỳ một tàu ngầm nào của Mỹ hay phương Tây có thể lặn tới ngày nay.
Tàu ngầm Lyra đạt tốc độ khi lặn hơn 80 km/giờ, nhanh hơn bất cứ loại ngư lôi nào thời đó.
Tàu ngầm hạt nhân này hoạt động không hề yên tĩnh chút nào ở tốc độ cao. Nhưng khả năng lặn sâu đáng kể cùng tốc độ nhanh là hai "bảo bối" khiến tàu không thể bị đối phương tấn công.
Bởi kích thước khiêm tốn nên tàu ngầm Lyra không mang được nhiều vũ khí, giới hạn ở mức 18-21 ngư lôi hoặc tên lửa hành trình. Tuy vậy, số vũ khí này được cho là đủ để đánh chìm cả một hạm đội tàu sân bay Mỹ nếu đội tàu không thể phản ứng một cách hiệu quả.
Vũ khí chính của Lyra là 6 ống phóng ngư lôi có khả năng sử dụng tên lửa RPK-2 Vyuga (tầm bắn 45km) hoặc RPK-7 Veter (tầm bắn 120km) mang đầu đạn hạt nhân. Hai loại tên lửa này được dẫn đường bằng radar Topol MRK-50 Snoop Tray.
Ngoài ra, tàu còn có 18 ngư lôi 53-65K có tầm bắn 19 km hoặc ngư lôi siêu khoang VA-111 đạt vận tốc đến 320 km/giờ cùng các loại thủy lôi.
Giống như MiG-25 và các loại vũ khí vượt trội của Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh, NATO đặc biệt lo ngại đến sức mạnh của các tàu ngầm Lyra.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra là minh chứng cho cuộc đua không ngừng giữa Liên Xô và Mỹ trong Chiến tranh Lạnh.
Hải quân Mỹ và các nước đồng minh đã gấp rút khởi động chương trình phát triển ngư lôi tấn công Mark 48, ngư lôi cao tốc Spearfish, đạt tốc độ lên đến 150 km/giờ hay tên lửa siêu thanh UUM-125 Sea Lance có thể mang đầu đạn hạt nhân. Sau khi Liên Xô ngừng dự án tàu ngầm Lyra thì Mỹ cũng hủy bỏ chương trình vũ khí Sea Lance vì chi phí sản xuất đắt đỏ.
Được mệnh danh là "Cá vàng", tàu ngầm Lyra đã tiêu tốn một lượng lớn ngân sách của Liên Xô. Tổng cộng có 7 tàu ngầm loại này được chế tạo nhưng chúng rất ít khi ra khơi vì việc bảo trì quá phức tạp.
Trong giai đoạn cuối Chiến tranh Lạnh, Liên Xô gặp khó khăn về tài chính nên những trang thiết bị vũ khí đắt tiền như Lyra không còn phù hợp. Vào giữa những năm 1990, toàn bộ các tàu ngầm Lyra đều được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ.
Ngày nay, trải qua những khủng hoảng của thế kỷ trước, Nga đang hồi sinh lại những dự án chế tạo vũ khí tham vọng. Các tàu ngầm lớp Barracuda (NATO gọi là Sierra) hay tàu ngầm tấn công Shchuka (NATO gọi là Akula) đều mang những tính năng chiến đấu và tự động hóa tương tự giống như tàu ngầm Lyra.
Theo chuyên gia Faley, liệu Nga có khởi động dự án chế tạo tàu ngầm kế thừa lớp tàu ngầm Lyra hay không hiện vẫn còn là dấu hỏi.
Hải quân Nga ngày nay nắm trong tay nhiều loại tàu ngầm hạt nhân chiến lược nhưng mẫu tàu ngầm tấn công mạnh mẽ như Lyra vẫn luôn phù hợp để đối đầu với tàu ngầm Mỹ hay NATO.
Theo Danviet
Uy lực 'sát thủ diệt tăng' ớn lạnh của Liên xô Trong Chiến tranh thế giới II, Hồng quân Liên Xô đã không có gì để đáp lại đòn tấn công của các xe tăng Đức, Kile Mizokami viết cho The National Interest. Tác giả cho rằng, nhờ kinh nghiệm này mà Liên Xô đã có được một trong những vũ khí dễ nhận biết nhất trên thế giới. Đơn giản và hiệu quả,...