Thâm nhập làng giả sư
Khoảng mươi năm trở lại đây, làng An Viên – Bắc Ninh có thêm một ” nghề phụ” mới hái ra tiền. Đó là nghề đóng giả các nhà tu hành để nhân danh chùa này đền nọ đi khắp các làng quê, đô thị miền Bắc quyên công đức, bán hương, nến, lộc phật với giá cao ngất ngưởng thu lời bất chính.
Hai kẻ hành nghề giả sư bị bắt
Để biết thêm tình hình, vào vai một người nhàn tản, tôi phóng xe máy đi chơi đây đó. Chỉ mươi phút ngồi ở quán nước đầu làng An Viên, tôi đã tận mắt thấy hơn chục chiếc xe máy do các “tăng ni” điều khiển từ trong chùa đi ra.
“Làng mình chắc có chùa to lắm, bà nhỉ? Bao nhiêu là sư qua lại…”. Tôi tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi chủ quán. Bà bán hàng nước tóc đã điểm bạc, dáng vẻ chân chất thở dài ngán ngẩm: “Sư sãi gì đâu ông. Họ chỉ là nông dân đóng giả thành sư nam sư nữ đi các nơi để xin công đức và bán hương nến đó…”. “Đông đến vậy cơ à?”. “Đông chứ. Nghề kiếm được mà. Cả làng này đóng giả sư nam sư nữ có cả trăm người. Chẳng vậy mà dân trong vùng gọi làng tôi là ” làng giả sư” đấy ông ạ…” Bà phân trần, nét mặt đượm buồn.
Tôi lần dò vào làng chơi. Theo trí nhớ của ông Q, nguyên trưởng thôn thì cuối những năm 90 của thế kỷ trước có mấy chị mấy cô người làng vào Nam sinh sống lấy chồng rồi lập nghiệp trong đó đã phát hiện ra nghề giả sư để đi bán hương, nến, làm từ thiện kiếm được khối tiền nên khi về quê đã truyền lại mánh lới làm ăn này cho dân làng mình.
Nghe bùi tai, mới đầu có vài người đi thử sau thấy cách làm này kiếm tiền được người nọ bèn rủ người kia rồi cả làng kéo nhau đi làm sư giả. Có gia đình đi 2 – 3 người cả mấy anh chị em ruột, cả bố mẹ cũng tham gia. Họ may quần nhuộm nâu, áo cà sa mặc vào, cổ cũng mang chuỗi tràng hạt dài để đóng giả sư đi hành nghề.
“Sư” ở đây được chia thành hai loại: loại đi quanh năm và loại sư mùa vụ. Sư đi quanh năm là bỏ hẳn cầy cuốc còn sư mùa vụ chỉ đi lúc nông nhàn tháng ba ngày tám là thu xếp đồ nghề, hương nến lên đường. Mà hầu hết các ” sư” đều đi xe máy để vươn tới được các huyện, các tỉnh xa chứ đi bộ khất thực loanh quanh mấy xã gần kiểu ” gà quê ăn quẩn cối xay” dân đã quen mặt dễ bị lật tẩy, bị chửi rủa đuổi đánh là cái chắc.
Video đang HOT
Đồ nghề của kẻ giả sư
Mỗi vị khi đi hành nghề đều có thẻ nhà Phật đeo trước áo cà sa ghi rõ họ tên, trụ trì ở những ngôi chùa to, có tiếng nào đó cấp. Còn ai cấp thẻ này cho họ thì ngay những người trong làng cũng không được biết. Chỉ biết mười mươi đó là thẻ dởm.
Trong vai nhà chùa, họ làm đủ mọi mánh khóe để moi tiền như khất thực, xin quyên góp công đức để hỗ trợ kinh phí trùng tu chùa này, dựng tượng nọ… Họ bán hương nến với giá cao gấp từ 10 đến 15 lần giá thị trường. Người Việt Nam vốn quí trong đạo Phật từ bi bác ái, vốn kính nể các tăng ni nên rất nhiều người đã bị lừa.
Có sư giả còn kiếm luôn nghề bói toán xóc thẻ, xem phong thủy, địa lý đất đai mồ mả rồi phán xằng nói bậy thế mà vẫn không ít người tin sái cổ, thù lao cho họ rất hậu hĩnh. Một ngày hành nghề như vậy mỗi sư giả chịu khó lang thang vào các làng quê, ngõ ngách thị xã, thị trấn, thành phố cũng kiếm được từ vài trăm ngàn đến cả triệu đồng. Nhiều ni cô giả như Hà Thị Đ., Phan Thị H. mới đi vài năm đã có tiền xây được nhà mái bằng, nhà cao tầng kiên cố khang trang, có của ăn của để.
Tuy nhiên nghề giả sư này cũng mang lại không ít tai tiếng xấu và hệ lụy buồn. Nguyễn Thị Thoa 27 tuổi đã bị công an Hải Phòng bắt quả tang khi vừa đút túi được hai triệu đồng tiền quyên góp trái phép ở quận Lê Chân. Ở chợ Ninh Hiệp – Đông Anh, Hà Nội, 2 sư giả khác của làng An Viên, là Phan Thành Chung và Nguyễn Thị Hòa cũng bị bà con bắt tại chỗ giao cho chính quyền xử lý vì tội lừa đảo…
Rõ ràng đây không thể gọi là “nghề phụ” như một số người trong làng ngộ nhận. Vì nghề phụ phải là nghề chân chính, dùng sức lao động của con người làm ra sản phẩm của cải vật chất cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế. Chứ còn ” nghề giả sư” này chỉ là hành vi, mánh khóe kiếm tiền một cách gian manh chụp giật, phạm pháp cần phải xử lý bằng pháp luật để trả lại sự yên bình lành mạnh hiền hòa trong sạch vốn có của làng quê Việt Nam.
Theo PLVN
Cảnh khốn cùng ở 'xóm cái bang'
Hơn 30 con người trong xóm, mỗi người một hoàn cảnh, một quán nhưng giống nhau một điều: đều là những thân phận cùng khổ.
Xóm gồm 13 túp lều với hơn 30 người sinh sống nằm lọt thỏm giữa cánh đồng bạt ngàn lau sậy bên ven đê con sông Cấm thuộc xã Tân Dương (huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng). Hễ thấy có xe và người lạ vào xóm, đám trẻ con lại nháo nhác chạy theo, người lớn cũng nhấc những tấm liếp là cánh cửa ọp ẹp ló đầu ra ngoài nhòm. Họ tưởng có vị khách hảo tâm nào vào làm từ thiện, hoặc ít ra cũng là người giàu trong thành phố tìm đến phát đồ từ thiện. Hơn 30 con người trong xóm, mỗi người một hoàn cảnh, một quán nhưng giống nhau một điều: đều là những thân phận cùng khổ.
30 con người, một cảnh sống cùng khổ
80 tuổi đời nhưng vợ chồng ông Hoàng Ngọc Khải và bà Lõm đã có đến 65 năm sống bằng nghề ăn xin. Bà Lõm thậm chí còn không biết họ tên đầy đủ của mình. Cái tên Lõm ra đời từ đặc điểm của bà là vết lõm to bằng cái bát con trên trán, người ta gọi tên từ ấy.
Bà Lõm kể: "Tôi chỉ nhớ quê ở tỉnh Hải Hưng (cũ), năm 15 tuổi cả gia đình chết hết trong nạn đói năm 1945, chỉ còn mình tôi lang bạt đi ăn xin". Năm 1972, khi đang ăn xin ở phố Khâm Thiên (Hà Nội) đúng thời điểm Mĩ thả bom B52, bà Lõm bị một mảnh bom văng vào phạt mất một mảnh xương trên trán. Vết thương đã làm mất đi đến 95% trí nhớ, không nhớ mình là ai. Bà tiếp tục kiếp hành khất nay đây mai đó, rồi khi lang thang đến ga Hải Dương thì gặp ông Khải. Hai người sống chung với nhau từ đó.
Ông vốn quê ở Thanh Hóa, bố mẹ chết sớm nên cũng đi ăn xin từ nhỏ. "Đám cưới của chúng tôi được tổ chức khi ấy với khách mời toàn là ăn mày, tiệc cưới là những phần bánh mì xin được", ông Khải nhớ lại.
Vợ chồng ông Khải, bà Lõm
"Hơn 10 năm vợ chồng sống lang thang ở dọc tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, cuối cùng 2 vợ chồng tìm bãi đáp là xóm ven đê sông Cấm. Vợ chồng ở mấy chục năm nay vẫn chưa có một mụn con nào, mà tôi cũng chẳng biết tại ông đấy hay tại tôi. Nhưng cũng may mà không có con. Nếu có con chắc gì sống nổi với cảnh bữa ăn, bữa nhịn; nếu có sống cũng chẳng thoát kiếp con ăn mày lại chống gậy ăn xin đâu", bà lão cười mà khóe mắt long lanh nước.
Cuộc đời của ông Lê Thế Minh, hàng xóm của vợ chồng ông Khải, bà Lõm cũng không kém phần khổ cực. Cả nhà chết đói sau nạn đói năm 1945, không còn ai thân thích, ông một mình phiêu bạt ăn xin khắp nơi rồi năm 1964 dạt về Hải Phòng. ông cũng lấy vợ là một phụ nữ ăn xin, dắt díu nhau về đây dựng lều ở, sinh được một đứa con trai. Bất hạnh chưa tha ông, vợ con ông lần lượt chết vì bệnh tim, ở cái tuổi ngoài 80 ông vẫn là gã ăn mày cô độc như lời ông nói.
Cách đó vài bước chân là túp lều của bà cụ Nguyễn Thị Minh, hơn 100 tuổi. Cụ là một trong những người đầu tiên khai sinh ra xóm ăn mày cách đây 30 năm. Quê cụ ở Ninh Bình, phiêu bạt ra Hải Phòng kiếm sống bằng nghề ăn xin rồi phải lòng một người đàn ông. Bị mù lòa sớm, những năm trước đây mỗi lần đi ăn xin cụ phải nhờ con cháu dắt đi. Cụ buồn rầu: "Nay có muốn đi ăn xin cũng chẳng được nữa, con cháu lớn đều phiêu bạt đi xa nên chẳng ai dắt tôi đi".
Luẩn quẩn kiếp ăn mày
Ông Lê Thế Minh - "gã ăn mày cô độc"
"Những đứa con của tôi chúng đều sinh ra từ bờ đê, bãi sú", đó là tâm sự đầu tiên của bà Nguyễn Thị Thảo, 65 tuổi, người mẹ của 4 đứa con trong xóm ăn mày. Bố mẹ mất sớm, từ nhỏ bà đã phải đi làm thuê kiếm miếng ăn rồi lưu lạc lên Hà Giang làm công nhân chè và lấy chồng. Ở với nhau được một thời gian, chồng bà phát bệnh tâm thần, thường xuyên đánh đập chửi bới vợ rồi ngày ngày lang thang ngoài đường. Thương chồng, bà khăn gói đi theo ông rồi cũng phát điên theo người điên lúc nào không hay. Những lúc tỉnh táo, ông bà lại sống cuộc sống vợ chồng. Bốn lần bà ôm bụng to vượt mặt đi ăn xin, 4 lần bà một mình vượt cạn sinh con trên bờ đê. ở xóm ăn mày này, nhà nào cũng sinh con cái kiểu như vậy đấy các chú ạ!. Bụng to vượt mặt vẫn phải đi kiếm miếng ăn, chẳng cần bà đỡ cũng chẳng cần giường chiếu gì đâu, cứ thế nằm ở bãi sú cũng đẻ tuốt, bà kể lại.
Không điện, không nước, không đường, và không luôn cả giấy tờ tùy thân, không có giấy chứng minh thư để chứng tỏ mình tồn tại trên cõi đời này. Những đứa trẻ cứ thế sinh ra trong nghèo đói và tồn tại ở "xóm cái bang" để tiếp nối nghề gia truyền của xóm, nghề ăn xin.
Nhiều người ở Hải Phòng biết đến xóm đặc biệt này. Khách lạ đến chơi thường mang theo đồ cũ phân phát cho người trong xóm khi thì cái chăn, cái chiếu, có khi là cả một chiếc giường. Bà Thảo cười: "ấm lòng hơn khi thấy nỗi khổ của mình vẫn được mọi người thông cảm, sẻ chia".
Theo Đời sống & Pháp luật
"Ăn xin sang" thời hiện đại Mọi người vẫn quen với hình ảnh người ăn xin nhếch nhác, khuôn mặt rầu rĩ đầy tội nghiệp rong ruổi ở các con đường, góc chợ, quán ăn. Không mấy ai ngờ "dân cái bang" ngày nay còn đội lốt người trí thức để hành nghề một cách tinh quái. Từ hỏi thăm đường... đến xin tiền. "Đời lắm người chai mặt...