Thái Bình: Khu vực nuôi trồng thủy sản có nguy cơ bị bỏ hoang do không có cát mặn để nuôi ngao
Cả một khu vực nuôi trồng thủy sản rộng lớn của người dân khu vực ven biển huyện Tiền Hải ( Thái Bình) có nguy cơ bị bỏ hoang do không có cát mặn để nuôi ngao.
Ao nuôi ngao của bà con xã Nam Cường bị bỏ hoang do không có cát mặn để cải tạo – Ảnh Thành Trung
Theo phản ánh của người dân xã Nam Cường huyện Tiền Hải, từ tháng 6/2021 tới nay hàng trăm hộ dân nuôi trồng thủy sản (NTTS) không có cát để đảo bãi nuôi ngao phục vụ sản xuất và phát triển kinh tế khiến họ lâm vào cảnh nợ nần, bỏ hoang đầm bãi.
Ghi nhận tại khu vực nuôi ngao gần 100ha thuộc địa bàn xã Nam Cường, một số ao vẫn đang bị bỏ hoang, rong rêu phủ kín, lán trại đều đóng cửa, vắng vẻ, ít thấy bà con trên đồng.
Người dân xã Nam Cường – Tiền Hải chia sẻ với PV – Ảnh Thành Trung
Trao đổi với PV, ông Trịnh Văn Hoan – một hộ dân nuôi ngao ở Nam Cường cho biết: “Kể từ thời điểm tháng 6/2021 người dân trong xã được thông báo không được khai thác cát ở biển về để NTTS nữa khiến hàng trăm hộ dân nuôi ngao giống như tôi hết sức lo lắng. Đây là nhu cầu cấp bách và cần thiết của chúng tôi để phát triển kinh tế, phát triển sản xuất, nếu thiếu cát biển, chúng tôi không thể cải tạo các ao, đầm để nuôi ngao”, ông Hoan ngậm ngùi chia sẻ.
Ông Trịnh Văn Hoan – người dân nuôi ngao ở xã Nam Cường trao đổi với PV – Ảnh Thành Trung
Ông Trương Thái Cường – thôn Chí Cường cho biết thêm: “Với mỗi ha đầm nuôi ngao, trong điều kiện thời tiết thuận lợi, một năm chúng tôi có tổng thu nhập khoảng trên 900 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí dư khoảng 500 triệu đồng. Tuy nhiên, gần 1 năm qua, người dân không có nguồn cát để phục vụ sản xuất, mặc dù nhu cầu sử dụng nguồn cát biển cho ngao giống là cần thiết. Nếu không thường xuyên bơm cát cải tạo (đảo bãi) ngao sẽ sinh trưởng chậm hoặc chết. Rất dễ đẩy chúng tôi vướng cảnh nợ nần, nguy cơ bị phá sản…”
Video đang HOT
Các hộ dân NTTS tại xã Nam Cường điêu đứng khi không có cát để nuôi ngao – Ảnh Thành Trung
Theo thông tin PV nắm được, huyện Tiền Hải hiện có khoảng hơn 1.300 hộ dân NTTS, với diện tích lên tới hơn 3.900ha. Trong đó có khoảng 1.990 ha NTTS có nhu cầu sử dụng cát biển, khối lượng 500m3/ha/năm. Riêng xã Nam Cường có diện tích nuôi ngao lên đến gần 100ha, chủ yếu là ươm ngao giống.
Trao đổi với PV, ông Hoàng Ngọc Sang – Bí thư đảng ủy xã Nam Cường xác nhận: “Việc người dân trên địa bàn xã Nam Cường không có cát biển để phục vụ đảo bãi NTTS, dẫn đến tình trạng ngao chậm sinh trưởng và chết là chính xác. Việc đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, kinh tế của bà con. Chúng tôi đã nhận được nhiều đơn kiến nghị và đã gửi báo cáo lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tìm cách tháo gỡ khó khăn cho bà con, nhưng đến nay, mọi việc chưa được giải quyết dứt điểm”.
Ông Hoàng Ngọc Sang – Bí thư Đảng bộ xã Nam Cường trao đổi với PV – Ảnh Thành Trung
Cũng theo ông Hoàng Ngọc Sang, do phần lớn diện tích NTTS của xã nằm trong nội đồng, được bao bọc bởi đê biển số 5. Việc vận chuyển cát cho vùng nuôi ngao giống gặp rất nhiều khó khăn để đáp ứng nhu cầu có nguồn cát cho ao nuôi cũng rất cần một bãi tập kết trung chuyển cát. Nếu không có bãi tập kết cát bà con sẽ phải mua nguồn cát không phù hợp cho ngao giống phát triển.
“Khó khăn quá, bà con đi mua cát nước ngọt về đảo bãi, nhưng việc đó không hiệu quả vì ngao không sống phù hợp với loại cát này. Nếu tình trạng trên còn tiếp diễn, sẽ có rất nhiều hộ dân phải bỏ hoang đầm, bãi, chuyển sang công việc khác vì không có cát để phục vụ cho nuôi ngao giống”, ông Sang cho biết thêm.
Người dân đang chỉ về ao nuôi ngao của mình khi không có cát để đảo bãi – Ảnh Thành Trung
Một lãnh đạo đồn Biên phòng Cửa Lân cho hay: “Hiện trên địa bàn có 31 tàu, thuyền hút cát phục vụ NTTS tại các bãi triều ven biển và các đầm trong đê. Các phương tiện này đều nhỏ, không có giấy phép hoạt động, không có đăng ký, đăng kiểm, không đảm bảo các trang thiết bị an toàn hàng hải tối thiểu, người điều khiển và người làm việc trên tàu không có bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn, hợp đồng lao động. Biết rằng khó khăn của bà con nhân dân trong việc thiếu cát biển để phục vụ sản xuất nhưng với chức trách nhiệm vụ được giao, Đồn Biên phòng Cửa Lân vẫn tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát; tiến hành lập biên bản đình chỉ hoạt động bơm hút cát và không làm thủ tục xuất bến cho các phương tiện hút cát ở những vị trí không được cấp phép”.
Ao nuôi ngao bị bỏ hoang do không có cát để cải tạo – Ảnh Thành Trung
Cũng theo lãnh đạo Đồn Biên phòng Cửa Lân: “Đến thời điểm hiện tại, trên khu vực biển của huyện Tiền Hải chưa có mỏ cát nào được cấp phép khai thác phục vụ NTTS; việc mua cát của các doanh nghiệp có mỏ cát được cấp phép khai thác khó khăn vì giá thành cao, trong khi đó nhu cầu sử dụng cát biển để cải tạo đầm, bãi NTTS là bức thiết và thường xuyên. Đồn Biên phòng Cửa Lân nhận được rất nhiều đơn kiến nghị của các chủ bãi, đầm xin được sử dụng các tàu hút cát để bơm cải tạo bãi, đầm NTTS. Do các phương tiện trên không đảm bảo đủ các thủ tục, giấy tờ, hút cát ở những khu vực chưa được cấp phép, nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của Đồn Biên phòng Cửa Lân.
Để giải quyết nhu cầu bức thiết của người dân và đảm bảo các phương tiện hút cát hoàn thiện các thủ tục giấy tờ và được cấp phép hoạt động, chúng tôi đang đề xuất với các cấp, các ngành tìm cách tháo gỡ cho bà con nhân dân để có nguồn cát phục vụ mục đích NTTS như quy hoạch tạm thời hoặc lâu dài khu vực khai thác cát biển, có các bãi trung chuyển để việc vận chuyển cát vào các khu vực NTTS thuận lợi, giúp bà con phát triển kinh tế”.
Thái Bình: Gian nan con đường tìm thức ăn nuôi cá
Giá nhiên liệu tăng cao và ảnh hưởng của dịch bệnh khiến từ khâu mua mồi về nuôi cá đến khâu bán thành phẩm đều làm cho các hộ dân nuôi thủy sản tại xã Thái Đô, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lâm vào cảnh khốn đốn.
Ngày 26/4/2022, PV tìm về xã Thái Đô huyện Thái Thụy (Thái Bình) để tìm hiểu về vấn đề nuôi cá và bán cá thành phẩm nơi đây
Trao đổi với PV, ông Trần Hồng Quân (60 tuổi, thôn An Duyên, xã Thái Đô, H.Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) với hơn 30 năm kinh nghiệm nuôi hủy hải sản lắc đầu ngao ngán khi nghĩ đến việc mấy tháng nay phải chật vật tìm nguồn mua thức ăn cho mấy tấn cá Vược, cá Song, cá Thủ đang lớn từng ngày trong ao nhà mình.
Ông Trần Hồng Quân (bên phải) và ông Nguyễn Văn Thiện, Phó Giám đốc hợp tác xã nuôi trồng thủy sản xã Thái Đô, H. Thái Thụy, tỉnh Thái Bình trao đổi về vấn đề nuôi cá.
Đây là những loại cá chỉ ăn cá con, không ăn các loại thức ăn khác. Do đó, ngày nào ông cũng phải "đánh" xe ra cảng cá Tân Sơn (TT. Diêm Điền, H.Thái Thụy) để mua cá mồi. Tuy nhiên, từ Tết Nguyên đán đến nay, giá nhiên liệu tăng cao, ngư dân không đi biển nữa, việc mua cá mồi cũng trở nên khó khăn.
Cá mồi trước đây chỉ có giá 6.000/kg, nay giá đã tăng lên 13.000/kg cũng không có để mua. "Ngư dân không ra khơi, các hộ nuôi cá ở đây cũng không xoay đâu ra nguồn cá mồi. Mấy hôm vừa rồi, một số thương lái chở cá mồi đông lạnh từ Quảng Trị về đây bán, giá 14.000 - 15.000/kg, dù đắt nhưng nhiều gia đình vẫn phải cắn răng mua. Hộ dân nào may mắn còn được thùng cá cấp đông đảm bảo. Hộ nào không may, mua phải thùng cá đã ươn, thối thì chỉ đổ đi, bởi giống cá nuôi ăn phải cá mồi ôi, thiu sẽ thối ruột mà chết", ông Quân nói.
Anh Tạ Văn Nhưỡng (50 tuổi, thôn An Duyên, xã Thái Đô, H.Thái Thụy) đã có kinh nghiệm hơn 20 năm nuôi thủy hải sản trên diện tích gần 2 hecta đầm của gia đình. Với diện tích này anh đã thả 7-8 tấn cá gồm ba loại cá Vược, cá Song, cá Thủ. Anh chia sẻ: "Trong giai đoạn đầu, cá còn nhỏ, 8 tấn cá giống mỗi ngày sẽ ăn hết 1,5-1,7 tạ cá mồi. Càng những năm sau, cá nuôi càng lớn sẽ càng tốn thức ăn".
Tính bình quân 1 con cá giống từ khi bắt đầu nuôi đến khi đạt trọng lượng 1 kg sẽ ăn hết 10-12 kg cá mồi. "Nếu bán cá ở giai đoạn này thì chủ đầm chỉ hòa vốn, muốn có lãi, phải chăm đến khi cá đạt trọng lượng từ 2-3kg (nuôi 2-3 năm)", anh Nhưỡng chia sẻ.
"Nhất nước, nhì môi, tam mồi, tứ quản" là câu cửa miệng của những hộ dân nuôi thủy hải sản vùng biển khu vực xã Thái Đô. Nghĩa là, nuôi mấy loại cá này cần chăm sóc hơn chăm con ruột của mình, nếu chỉ lơ đễnh vài giờ đồng hồ quên không bật máy cấp ô xi cho cá thì từ khối tài sản vài trăm triệu sẽ trở về trắng tay.
Quá trình nuôi cá rất hao, thả xuống 10 con may ra còn lại 5 con vì chúng ăn thịt nhau. Nếu bị mất, bị trôi theo cống thoát nước ra ngoài, chỉ còn 1, 2 con, thậm chí không còn con nào.
Khi nuôi, phải bật điện chạy quạt máy tạo ô xi cho cá thở mỗi đêm, mỗi lần trời trở gió...phải thay nước thường xuyên, phải đánh men vi sinh...rất nhiều quy trình cần thực hiện để có thể nuôi được một lứa cá trưởng thành.
"Tranh nhau thị trường mua mồi, nhưng nguồn cung lại ảm đạm vô cùng" là lời chia sẻ của ông Trần Hồng Quân. Theo ông Quân, những năm đầu tiên nuôi cá (khoảng 15 năm trước) có lẽ là thời hoàng kim của các hộ dân chăn nuôi thủy hải sản nơi đây. Lúc này, cá Song loại 3-4 kg bán giá hơn 310.000-320.000 đồng/kg. Sau này, nhiều hộ nuôi nên giá đã giảm.
Khi dịch Covid chưa hoành hành, xăng dầu chưa tăng giá, cá mồi có sẵn, giá rẻ, giao thông thuận lợi, du lịch phát triển nên việc nuôi cá rất hiệu quả: "Cứ thả cá xuống là chắc chắn có lãi, thậm chí lãi lớn. Đến mùa thu hoạch, vừa bắt cá lên là thương lái tranh nhau mua để phân phối đến khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước", ông Quân nói.
Hai năm trở lại đây dịch bệnh, khó khăn bủa vây, hiện nay, Cá Vược (trọng lượng 3-4kg) chỉ có giá 60.000 đồng/kg, cá Song giá 100.000 đồng/kg, cá Thủ 90.000 đồng/kg. Với loại trọng lượng nhỏ hơn giá sẽ thấp hơn nữa. Thương lái không có nên chủ đầm phải bán lẻ, mỗi lần dùng lưới quét lại một lần mất thêm chi phí. Đã thua lỗ lại càng thêm thua lỗ. Cá rớt giá nhưng đầu ra cũng rất cầm chừng.
Khi cá còn nhỏ, mỗi lần cho ăn chủ đầm phải cắt nhỏ mồi thì cá giống mới có thể ăn được.
Trao đổi với PV, ông Nguyễn Văn Thiện, Phó Giám đốc hợp tác xã nuôi trồng thủy sản xã Thái Đô, H. Thái Thụy, tỉnh Thái Bình cho biết: Xã Thái Đô có 1020 hộ chăn nuôi thủy hải sản, chiếm khoảng 50% tổng số dân sinh sống trên địa bàn.
Năm 2002, dự án nuôi tôm của Bộ Nông nghiệp và PTNT được quy hoạch với diện tích 400 hecta, đến nay dự án bị thu hẹp còn 290 hecta do thu hồi để làm đường. Theo quy hoạch, dự án để nuôi tôm nhưng người dân chỉ nuôi được khoảng 10 năm, sau đó thấy hiệu quả giảm nên chuyển dần sang nuôi thêm các loài khác, thu hẹp dần diện tích nuôi tôm.
"Dưới góc độ là người quản lý, phụ trách lĩnh vực này, chúng tôi đã hỗ trợ người dân hết khả năng có thể, luôn sâu xát quan tâm nắm bắt tình hình để hỗ trợ. Mỗi tuần, chúng tôi thông báo chi tiết lịch con nước, thông báo về dịch bệnh, phối hợp phòng thủy sản lấy mẫu dịch đi kiểm nghiệm và có biện pháp khoanh vùng khi có dịch bệnh xảy ra", ông Thiện nói.
"Trước tình hình người dân đang gặp rất nhiều khó khăn như hiện nay, HTX nuôi trồng thủy hải sản xã Thái Đô tuy không có ngân sách để hỗ trợ người dân nhưng chúng tôi luôn động viên, thăm hỏi và chia sẻ những khó khăn này với họ. Chúng tôi hi vọng, các cơ quan ban ngành có thẩm quyền xem xét giảm giá nhiên liệu để ngư dân tiếp tục bám biển, đảm bảo an sinh xã hội, từ đó giảm bớt gánh nặng cho họ, bình ổn thị trường cá mồi cũng là giúp người dân nuôi trồng thủy hải sản ổn định lại cuộc sống", ông Thiện cho biết.
Cát nạo lên, tiền đổ xuống: Sông sạt lở, bờ biển thụt lùi Cùng với việc dừng xuất khẩu cát, nhà nước đã có nhiều quy định thắt chặt quản lý khai thác cát. Thế nhưng, nguồn lợi quá lớn khiến cát đang được khai thác tận diệt, bất chấp việc sạt lở gây biến dạng bờ sông, bờ biển ngày càng thụt lùi... Lựa chọn các vật liệu khác thay thế dần cát Theo tiết...