Tàu Trung Quốc ngang ngược xâm phạm Bãi Tư Chính: Việt Nam không thể trông chờ vào bất cứ lực lượng bên ngoài nào
Tiếng nói ủng hộ của quốc tế hỗ trợ Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề Biển Đông, nhưng việc bảo vệ chủ quyền là của Việt Nam và Việt Nam phải tự quyết.
Trong những tuần qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 ( Haiyang Dizhi 8) của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Bộ Ngoại giao Việt Nam trao công hàm phản đối, yêu cầu Trung Quốc ngay lập tức chấm dứt hành vi vi phạm của mình, đồng thời khẳng định lực lượng chấp pháp sẽ tiếp tục triển khai các biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam.
Chia sẻ với VTC News, TS. Bùi Thị Thu Hiền, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, đưa ra những phân tích, nhận định tình hình và khuyến nghị phương thức đối phó với hành vi vi phạm của Trung Quốc.
Tàu Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc. (Ảnh: Gulf Times)
- Thưa bà, bà nhìn nhận như thế nào về vụ việc Trung Quốc đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 vào khu vực bãi Tư Chính?
Sau khi vụ việc xảy ra, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam đã rất nhiều lần công khai phản đối việc Trung Quốc ngang nhiên đưa tàu thăm dò dầu khí vào khu vực thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Về mặt pháp lý, theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, bãi Tư Chính là một trong những vùng biển mà Việt Nam có quyền tài phán (đối với vùng đặc quyền kinh tế). Do đó, Việt Nam hoàn toàn có quyền trong vấn đề khai thác dầu khí.
Chính vì thế mà việc Trung Quốc đưa tàu thăm dò vào khu vực này mà không có sự đồng ý của Việt Nam, cũng như can thiệp vào hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam, là một hành động trái với luật pháp quốc tế, đặc biệt là trái với quy định của Công ước về Luật Biển năm 1982, mà cả Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên.
- Trước hành động trên của Trung Quốc, Việt Nam cần phải hành xử như nào để phù hợp với luật pháp quốc tế?
Theo các nguồn tin chính thống mà tôi nắm được, hoạt động này của Trung Quốc đã diễn ra từ hôm 3/7. Sau một thời gian, Việt Nam mới đưa ra các thông tin mang tính chất công khai. Tuy nhiên, ngay từ đầu, trên thực địa, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam đã có những hành động ngăn cản, cũng như là chống lại sự can thiệp của Trung Quốc vào hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam, mà theo đánh giá của tất cả giới chuyên môn trên thế giới, cũng như của Chính phủ Việt Nam, là hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Các cán bộ chiến sĩ Vùng 2 Hải quân cùng các nhà báo, phóng viên trên tàu Trường Sa 19 vẫy chào cán bộ chiến sĩ trên Nhà giàn Dk1/15 (Phúc Nguyên). (Ảnh: TTXVN)
Vì là vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta, cho nên Việt Nam có quyền tiến hành các hoạt động khai thác, thăm dò dầu khí. Do đó, các hoạt động can thiệp, quấy nhiễu của Trung Quốc là hoàn toàn phi pháp, và Việt Nam có quyền chống lại các hành động can thiệp, quấy nhiễu trái với luật pháp quốc tế như vậy của Trung Quốc.
- Biết là trái với luật pháp quốc tế mà Trung Quốc vẫn cứ làm, vậy mục đích của Trung Quốc thực sự là gì, thưa bà?
Theo tôi, để đánh giá mục đích thực sự của Trung Quốc ở Biển Đông thì không thể nhìn vào một hiện tượng. Tức là, không nên nhìn vào mỗi sự kiện Trung Quốc đưa tàu vào, chúng ta nên xâu chuỗi lại tất cả các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong suốt một khoảng thời gian nhất định.
Chỉ cần nhìn lại khoảng thời gian gần đây, chúng ta sẽ thấy: Vào cuối tháng 5 Trung Quốc đã ngăn cản hoạt động khai thác dầu khí trên thềm lục địa của Malaysia; Sau đó, chiếc tàu Haijing 35111 của lực lượng Hải cảnh Trung Quốc quay về khu vực đảo nhân tạo mà Trung Quốc đã tạo ra một cách phi pháp ở Biển Đông; Tiếp đó, đến cuối tháng 6 và đầu tháng 7, quay lại can thiệp vào hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam.
Ngoài ra, để đánh giá việc Trung Quốc có những hành động can thiệp vào lợi ích hợp pháp của các quốc gia trên Biển Đông, chúng ta nên nhìn nhận sâu hơn về trước. Ví dụ, năm 2017, Trung Quốc có hành động phản đối trước việc Việt Nam cho công ty Repsol thăm dò ở mỏ Cá Rồng Đỏ; đến năm 2018, lại có những hành động can thiệp đối với mỏ Cá Voi Xanh.
Xâu chuỗi các hành động như vậy có thể thấy mục tiêu của Trung Quốc ở Biển Đông là hoàn toàn không thay đổi: liên tục can thiệp, gây sức ép lên các quốc gia có lợi ích hợp pháp trên Biển Đông nhằm hiện thực hóa các yêu sách của mình tại đây. Do đó, các hành vi của nước này là hợp lô-gic và có thể dự đoán được.
- Vậy là không có liên quan gì đến bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc hiện nay, thưa bà?
Tất nhiên cũng có những quan điểm cho rằng do Trung Quốc và Mỹ hiện nay đang có những cuộc cạnh tranh khốc liệt, ví dụ như cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại, lĩnh vực công nghệ cao, hoặc trong vấn đề Đài Loan và vấn đề Biển Đông, cho nên Trung Quốc muốn đẩy vấn đề Biển Đông lên cao để đánh lạc hướng chú ý của dư luận trong nước. Đấy cũng là một quan điểm.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Trung tâm Biển Đông, vấn đề cạnh tranh chiến lược giữa Trung Quốc và Mỹ nói chung, và cạnh tranh ở Biển Đông nói riêng, dù có hay không, Việt Nam phải luôn luôn ở trong tinh thần chủ động. Với một quốc gia có nhiều lợi ích biển như Việt Nam, điều đó rất quan trọng.
Vì thế mà hòa bình và ổn định tại Biển Đông luôn luôn là một trong những mục tiêu mà Đảng và Chính phủ Việt Nam hướng tới. Chúng ta cần phải động viên được sức mạnh toàn dân tộc làm sao để đảm bảo giữ gìn chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cũng như đảm bảo hòa bình, ổn định để có thể tiếp tục công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế đất nước.
- Thưa bà, bà nói cần phải xâu chuỗi các sự việc để có thể hiểu được mục tiêu của Trung Quốc. Vậy liệu việc Trung Quốc thử tên lửa ở Biển Đông hay hạ thủy tàu nghiên cứu tầm xa có liên quan đến hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vừa qua không?
Theo đánh giá của Trung tâm Biển Đông, thì việc thử tên lửa hay hạ thủy tàu nghiên cứu tầm xa không phải là sự chuẩn bị cho bước tiếp theo nhằm kéo dài căng thẳng ở khu vực bãi Tư Chính (mà Trung Quốc gọi là bãi Vạn An Bắc), bởi vì thực ra nó nằm trong chiến lược cường quốc biển của Trung Quốc.
Chiến lược quốc biển của Trung Quốc được đề ra tại Đại hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ XVIII. Từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền, chiến lược này đã được thúc đẩy rất mạnh. Bên cạnh chiến lược cường quốc biển, Trung Quốc còn đề ra các mục tiêu khác như chiến lược cường quân, 2 mục tiêu 100 năm, “Giấc mộng Trung Hoa”,… Tất cả những chính sách này đều tập trung vào việc Trung quốc phải kiểm soát, cũng như phải có chỗ đứng rất vững chắc trong khu vực Thái Bình Dương.
Để tiến ra Thái Bình Dương thì Trung Quốc cần có một bàn đạp vững chắc ở Biển Đông. Chính vì thế mà quan điểm và hành động của Chính phủ Trung quốc về vấn đề Biển Đông (mà Trung quốc gọi là Biển Nam Hải) đang thay đổi dần dần theo từng cấp độ.
Tàu khu trục Trung Quốc phóng thử tên lửa chống hạm trong một cuộc tập trận ở vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam hồi năm 2016. (Ảnh: Hindustantimes)
Năm 2009, Trung Quốc chính thức công bố bản đồ “đường lưỡi bò”, mặc dù không giải thích bất cứ căn cứ nào. Đến năm 2010, để phản ứng lại tuyên bố cứng rắn của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton về Biển Đông, Trung Quốc đã tuyên bố rằng Biển Đông thuộc lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, tức là đặt vấn đề Biển Đông ngang với cả vấn đề Tân Cương, Tây Tạng và vấn đề Đài Loan.
Nếu đã liên quan đến lợi ích cốt lõi thì Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ chủ quyền của mình, mặc dù chủ quyền ấy Trung Quốc biết là không có căn cứ và phi pháp. Chính vì thế tất cả các hành động của Trung Quốc đều nằm trong kế hoạch tổng thể của nước này, để làm sao khi vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới thì Trung Quốc cũng cần có được tiếng nói mạnh mẽ hơn trong tất cả các vấn đề quốc tế cũng như khu vực.
Do đó, theo tôi, việc thử tên lửa ở Biển Đông và hạ thủy tàu thăm dò tầm xa là một phần trong kế hoạch tổng thể của Trung Quốc trong việc tiến ra làm chủ Biển Đông, cũng như tiến ra làm chủ khu vực và khẳng định vai trò của mình trên thế giới. Trong khoảng 10 năm trở lại đây, nền khoa học công nghệ biển của Trung Quốc đã phát triển rất mạnh mẽ. Tuy chưa thể đạt được đến mức độ phát triển như Mỹ hay các cường quốc biển khác, nhưng Trung Quốc vẫn tự tin tuyên bố đủ khả năng thăm dò được 99% đáy đại dương tại thời điểm hiện tại ở bất cứ độ sâu nào.
- Bà đánh giá thế nào về vai trò tiếng nói của ASEAN và các quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là Mỹ, trong vấn đề này?
Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn là giải quyết vấn đề Biển Đông thông qua các biện pháp hòa bình, và trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước về Luật Biển. Ngoài ra, Chính phủ cũng như các nhà lãnh đạo hai nước đã thông qua nguyên tắc giải quyết vấn đề Biển Đông, đó là giải quyết thông qua đàm phán, giữ nguyên hiện trạng, đảm bảo không quốc tế hóa và làm phức tạp vấn đề Biển Đông.
Vấn đề Biển Đông là của Việt Nam và Việt Nam phải tự giải quyết chứ không trông chờ vào bất cứ lực lượng bên ngoài nào.TS. Bùi Thị Thu Hiền
Gần đây nhiều người cho rằng Việt Nam nên tận dụng tiếng nói của ASEAN và các quốc gia khác ngoài khu vực trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, theo đánh giá của Trung tâm Biển Đông thì chủ trương, lập trường của Việt Nam luôn luôn là đảm bảo nguyên tắc 3 không: không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Nguyên tắc đó đã được khẳng định trong đường lối đối ngoại từ thời kỳ đổi mới của Việt Nam đến nay.
Tất nhiên, trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang thay đổi rất nhanh, với việc mà các quốc gia bên ngoài như Mỹ và một số nước khác lên tiếng về vấn đề Biển Đông có thể giúp chúng ta có lợi thế hơn trong việc giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng tiếng nói của Mỹ trong giải quyết vấn đề Biển Đông không phải là quá lớn.
Rất nhiều người cũng nghĩ rằng cần phải phát huy vai trò của ASEAN trong vấn đề Biển Đông, tuy nhiên ASEAN là một cộng đồng có trình độ rất khác nhau, và bản thân lợi ích của các nước ở khu vực Biển Đông cũng là rất khác nhau. Chúng ta không phủ nhận rằng việc tham gia vào diễn đàn ASEAN sẽ giúp tiếng nói của chúng ta có trọng lượng hơn, và bản thân Trung Quốc trong mối quan hệ với ASEAN cũng có thể dè chừng hơn nếu như các nước trong khối thực sự đoàn kết và quyết tâm gìn giữ hòa bình ở Biển Đông.
Mặc dù có thể các nhân tố đó có tác động đến và giúp cho chúng ta có những tiếng nói tốt hơn để gây sức ép với Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng vấn đề Biển Đông là của Việt Nam và Việt Nam phải tự giải quyết chứ không trông chờ vào bất cứ lực lượng bên ngoài nào.
- Mới đây, bất chấp tình hình căng thẳng ở bãi Tư Chính, giàn khoan Hakuryu-5 tại khu vực lô 06.1 vẫn được kéo dài lịch hoạt động. Bà có đánh giá như nào về động thái này của chúng ta?
Từ trước đến nay Việt Nam luôn luôn khẳng định Việt Nam đang khai thác dầu khí ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Một khi đã khẳng định như vậy, chúng ta cần phải làm và quyết tâm không để chịu sức ép của bất cứ bên nào, kể cả Trung Quốc. Quyết tâm của Việt Nam vẫn luôn được thể hiện lâu nay.
Việt Nam là quốc gia có lịch sử khai thác dầu khí ở Biển Đông từ rất lâu rồi. Đặc biệt, ở trong bãi Tư Chính, chúng ta có rất nhiều hoạt động: theo một số tài liệu, chúng ta đã có hơn 30 dự án hợp tác với các nước tại khu vực này. Chúng ta muốn khẳng định vùng biển đó là nơi Việt Nam có quyền tiến hành các hoạt động dầu khí theo đúng luật pháp quốc tế. Theo đó, Việt Nam hoàn toàn cũng có quyền bảo vệ lợi ích chính đáng này.
- Xin chân thành cảm ơn bà.
VĂN ĐỨC
Theo VTC
Tàu Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam: Công lý đứng về phía Việt Nam!
Hành vi của tàu Trung Quốc là xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Ngày 19/7/2019, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về phát biểu của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 17/7/2019 liên quan đến diễn biến ở khu vực biển Đông, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nhấn mạnh: "Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam biển Đông".
Để xác định tính chất và mức độ vi phạm tại hiện trường gây ra bởi nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc ở khu vực Nam biển Đông cần xem xét đến những căn cứ pháp lý, qua đó đánh giá lập trường của các bên liên quan.
TS Trần Công Trục - nguyên trưởng Ban Biên giới Chính phủ, một trong những người đầu tiên tham gia biên dịch các tài liệu và nội dung Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982 ra tiếng Việt, chia sẻ với VTC News những vấn đề giúp độc giả hiểu rõ hơn về vụ việc.
- Thưa Tiến sĩ, căn cứ pháp lý nào để Việt Nam có thể khẳng định đó là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình?
Đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ pháp, đặc biệt là Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Hague năm 2016, khẳng định nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam biển Đông. TS. Trần Công Trục
Qua nghiên cứu, đối chiếu với những quy định của UNCLOS 1982, Luật Biển Việt Nam năm 2012, cũng như các tiền lệ pháp, đặc biệt là Phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế The Hague năm 2016, chúng tôi đánh giá rằng lời khẳng định nói trên của Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam là khá thuyết phục, vì nó có căn cứ pháp lý rõ ràng.
Bởi vì, khu vực phía Nam biển Đông được đề cập là khu vực bãi cạn Tư Chính, Vũng Mây, Quế Đường, Huyền Trân... ở cách đường cơ sở thẳng dùng để tính chiều rộng lãnh hải ven bờ lục địa Việt Nam công bố năm 1982 dưới 200 hải lý, thậm chí có khu vực ở cách đường bờ biển ven bờ lục địa đối diện cũng xấp xỉ khoảng trên dưới 200 hải lý.
Chúng tôi nhấn mạnh đến khái niệm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý; bởi vì còn có ranh giới ngoài của thềm lục địa có thể mở rộng ra đến 350 hải lý, nếu chứng minh được bờ ngoài của thềm lục địa kéo dài ra ngoài giới hạn 200 hải lý .
Vì vậy, Việt Nam đã và đang tiến hành thăm dò khai thác dầu khí, xây dựng các cụm dịch vụ mang tên DK, phù hợp với các quy định về quyền và nghĩa vụ của quốc gia ven biển theo Điều 60, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế và Điều 80 quy định về các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình ở thềm lục địa.
Việt Nam có đặc quyền tiến hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình dùng vào mục đích được trù định ở Điều 56 của UNCLOS 1982 hoặc các mục đích kinh tế khác trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Việt Nam tuyên bố không cố ý biến các bãi ngầm ở thềm lục địa phía Nam thành đảo nổi và không ghép chúng vào quần đảo Trường Sa, đồng thời bác bỏ sự gán ghép này.
Nhà giàn DK1/18. (Ảnh: VOV)
- Vậy cơ sở nào mà Trung Quốc lại nguỵ biện rằng khu vực mà nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 đang hoạt động nằm trong phạm vi "quần đảo Nam Sa" thuộc lãnh thổ của Trung Quốc?
Trung Quốc xem bãi Tư Chính là một phần của quần đảo Nam Sa (cách Trung Quốc gọi quần đảo Trường Sa của Việt Nam) thuộc "chủ quyền bất khả xâm phạm" của Trung Quốc. Nhưng lập luận ngụy biện này hoàn toàn trái ngược với những quy định của UNCLOS 1982, và đặc biệt là đã bị Phán quyết Tòa Trọng tài quốc tế The Hague năm 2016 bác bỏ.
Cụ thể, liên quan đến quy chế pháp lý của các cấu trúc địa lý của quần đảo Trường Sa, Tòa trọng tài đã tuyên:
- Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý, trong khi các cấu trúc chìm khi thủy triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy;
- Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc. Các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa, nhưng các "đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa";
- Không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các vùng biển mở rộng. Tòa cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng biển như một thực thể thống nhất.
Theo đó, các bãi cạn Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong... là những rạn san hô, bãi cát ngầm ngập hoàn toàn dưới mặt nước biển được Tòa xác định nằm trong vùng đặc quyền kinh tế theo đề nghị của Philippines. Tuy nhiên, Tòa đã nói rất rõ: Phán quyết của Tòa không giải quyết vấn đề chủ quyền/phân định biển.
- Có thể hiểu là riêng vấn đề chủ quyền đối với Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong..., toà không ra phán quyết. Vậy các bên liên quan sẽ phải giải quyết về vấn đề chủ quyền lãnh thổ theo nguyên tắc nào, thưa ông?
Theo nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ. Và, lúc đó, các bên liên quan sẽ phải chứng minh bãi cạn Vành Khăn, Cỏ Mây, Cỏ Rong... về mặt địa chất, địa mạo là một phần của quần đảo Trường Sa hay chỉ là một bộ phận cấu thành thềm lục địa của một quốc gia ven biển liên quan theo quy định của UNCLOS 1982.
Tàu Haijing 35111 của Trung Quốc. (Ảnh: SOCIAL MEDIA)
Tất nhiên, khi bàn thảo về nội dung này, người ta không thể không đề cập đến quần đảo Trường Sa bao gồm những thực thể nào, phạm vi của nó đến đâu. Liên quan đến phạm vi quần đảo Trường Sa, hiện nay chưa có bên liên quan nào công bố chi tiết, chính thức. Nếu nghiêm túc dựa vào các quy định của UNCLOS, đối chiếu với trạng thái tự nhiên của chúng trên thực tế và với một thái độ thật sự cầu thị, thiện chí, khách quan, chắc chắn sẽ tìm ra được những đáp số chuẩn xác nhất.
Bởi vì, Phán quyết của Tòa trọng tài đã cung cấp và giải thích cho chúng ta những khái niệm pháp lý rất chính xác và rõ ràng; có thể được xem như là một Phụ lục của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982; giúp cho chúng ta có căn cứ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong biển Đông trước những tính toán giải thích và áp dụng sai các quy định của UNCLOS 1982 của Trung Quốc hòng độc chiếm biển Đông, không chỉ những nội dung mà Phán quyết Tòa trọng tài đã tuyên, mà còn các nội dung khác nữa.
- Xin ông cho biết cụ thể Trung Quốc có những hành động gì để thực hiện hóa yêu sách ngang ngược của mình? Và Việt Nam có những phản đối mạnh mẽ ra sao với các hành động ngang ngược đó?
Để hiện thực hóa yêu sách của mình, ngày 8/5/1992, một công ty nhỏ của Mỹ, Crestone Energy Corporation, được Trung Quốc cấp quyền thăm dò dầu khí trên một phạm vi biển rộng đến 25.155 km mà Trung Quốc gọi là Vạn An Bắc, cạnh khu vực bãi ngầm Tư Chính. Đồng thời, Trung Quốc cũng ký hợp đồng giao 5.076 km biển tại bãi Tư Chính cho doanh nghiệp này.
Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ động thái này của Trung Quốc, trong khi vẫn tiến hành cấp quyền một lô dầu khí cạnh đó cho hãng Mobil của Mỹ. Đến năm 1994, Crestone lại có kế hoạch thăm dò lô Vạn An Bắc 21 (theo cách gọi của Trung Quốc) nhưng Việt Nam đã kiên quyết ngăn cản nên Công ty này phải dừng hoạt động. Cũng trong năm này, Việt Nam thuê Công ty Vietsovpetro tìm cách khoan một giếng dầu trong khu vực.
Hai năm sau, vào năm 1996, Việt Nam đã ký hợp đồng với hãng Conoco của Mỹ thăm dò dầu khí tại hai lô 133 và 134, bao trùm diện tích 14.000 km tại vùng biển hầu như trùng khớp với vùng biển mà Trung Quốc giao cho Crestone năm 1992. Trung Quốc xem hành động của Việt Nam là bất hợp pháp và vô giá trị, đồng thời cảnh cáo trực tiếp Công ty Conoco. Việt Nam cho rằng, không cần phải thảo luận với Trung Quốc về hợp đồng dầu khí, bởi lẽ vùng khai thác thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
- Thưa ông, vậy chủ chương và phương thức ứng xử của Việt Nam là như thế nào?
Nội dung tuyên bố của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam cho thấy lập trường pháp lý và chủ trương chính trị của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, rõ ràng, thể hiện thiện chí của một quốc gia thành viên có trách nhiệm của UNCLOS 1982. Chúng tôi đánh giá cao và xin nhấn mạnh đến biện pháp đấu tranh ngoại giao và phương thức ứng xử trên thực tế của các lực lượng chấp pháp của Việt Nam khi phát hiện những hoạt động phi pháp của nhóm tàu Hải Dương 8.
Về đấu tranh ngoại giao, Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, trao công hàm phản đối, kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam; tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Căn cứ vào tính chất, mức độ và phạm vi xảy ra vi phạm và xuất phát từ thiện chí, tinh thần trách nhiệm của Việt Nam trước Công đồng khu vực và quốc tế, Cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam đã cân nhắc một cách thận trọng trước khi áp dụng những hình thức đấu tranh chính trị, pháp lý, truyền thông thích hợp, khá mạnh mẽ và đúng thủ tục pháp lý hiện hành.
Nội dung các văn kiện ngoại giao theo chúng tôi cũng đã phản ánh đầy đủ lập trường nói trên của Việt Nam. Tuy nhiên, có thể vì lý do nào đó, chúng không nhất thiết phải được công bố công khai. Đó là một thực tế thông thường trong cách ứng xử giữa cac quốc gia trong quan hệ quốc tế. Dù công bố hay không, giá trị pháp lý vẫn không thay đổi.
- Còn những ứng xử của các lực lượng chấp pháp tại hiện trường, thưa ông?
Về những động thái ứng xử của các lực lượng chấp pháp tại hiện trường, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng cho biết: "Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam". Chúng tôi xin được bình luận sâu hơn về thông tin này:
Như chúng tôi đã phân tích, trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định phù hợp với quy định của UNCLOS 1982, quốc gia ven biển có các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc: Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình,Nghiên cứu khoa học về biển, Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển; Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Các quốc gia khác, có biển và không có biển, có 3 quyền khi đi vào vùng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của quốc gia ven biển, bao gồm: quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp, ống dẫn dầu ở đáy biển của vùng thềm lục địa.
Tuy nhiên, nếu các quốc gia thực hiện những quyền này mà ảnh hưởng đến các hoạt động thăm dò khai thác, kinh tế hoặc nghiên cứu khoa học của quốc gia ven biển thì phải được sự cho phép của quốc gia ven biển. Nếu không được phép là vi phạm EEZ và thềm lục địa của quốc gia ven biển.
Hơn nữa, cũng xin được lưu ý rằng, theo UNCLOS 1982, việc phát hiện và xử lý các sai phạm có khả năng xảy ra hay đã xảy ra trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, các lực lượng chấp pháp trên biển của quốc gia ven biển cũng phải tuân thủ các thủ tục pháp lý chặt chẽ, không được phép xử lý một cách tùy tiện, đặc biệt là hạn chế hoặc thậm chí nghiêm cấm việc sử dụng các biện pháp bằng sức mạnh để cưỡng bức, không qua xét xử của các cơ quan tư pháp... Chẳng hạn, Điều 73, UNCLOS 1982, quy định:
- Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước;
- Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này;
- Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác;
- Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được tuyên bố sau đó.
- Như vậy, khi áp dụng các biện pháp đấu tranh tại hiện trường xảy ra vụ việc, để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam phải lưu ý điều gì, thưa ông?
Có thể thấy rằng, khi áp dụng các biện pháp đấu tranh tại hiện trường xảy ra vụ việc để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trên biển, các lực lượng chấp pháp của Việt Nam cũng phải hết sức thận trọng và phải cân nhắc kỹ trước khi áp dụng một biện pháp nào đó, chứ không thể xử lý theo cảm xúc, chủ quan. Nếu không cẩn thận, chúng ta có thể bị mắc bẫy của đối phương khi họ kiếm cớ để gây khủng hoảng dẫn tới đụng độ, nhằm nhanh chóng rút ngắn thời gian thực hiện mục tiêu chiến lược của họ.
Điều này còn là bài học, lời cảnh tĩnh đối với chúng ta, với tư cách là những công dân bình thường, khi tiếp cận với những thông tin không được kiểm chứng hòng kích động dư luận, gây bất ổn về chính trị, vì những động cơ chính trị; còn với tư cách là những cán bộ, chiến sỹ trên mặt trận đấu tranh chính trị, pháp lý, tuyên truyền, giáo dục, trước hết, phải nâng cao kiến thức pháp lý của mình để chỉ đạo hay trực tiếp tham gia quá trình xử lý đúng đắn và thích hợp, đồng thời, có trách nhiệm thông tin kịp thời, chuẩn xác, rõ ràng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, trong bối cảnh có nhiều thông tin thiếu kiểm chứng đang tràn ngập trên các mạng xã hội ở thời đại công nghệ 4.0 hiện nay.
- Xin cám ơn ông về cuộc trò chuyện!
Video: Mỹ phản đối Trung Quốc cản trở hoạt động khai thác dầu khí ở Biển Đông. (Video: truyền hình Thông tấn).
VĂN ĐỨC
Theo VTC
Bộ Ngoại giao thông tin về tàu Hải Dương 8 Trung Quốc vi phạm Việt Nam đã trao công hàm phản đối cho phía Trung Quốc, yêu cầu rút ngay khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam . Ngày 25-7, tại Họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên liên quan đến hoạt động của nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc vi phạm vùng...