Tăng trưởng tín dụng xanh thúc đẩy Đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tài chính xanh có thể giúp ngăn chặn biến đổi khí hậu bằng cách tài trợ cho các dự án năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, cũng như hỗ trợ phát triển các công trình xanh, từ đó thúc đẩy phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long.
Mỗi năm, trung bình thảm rừng ven biển Tây của tỉnh Cà Mau bị cuốn mất khoảng 50m lấn sâu vào bên trong. Cá biệt, nhiều đoạn mất khoảng 10m/tháng. Ảnh tư liệu: Trọng Đạt/TTXVN
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những vùng dễ bị tổn thương nhất trên thế giới trước biến đổi khí hậu. Mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu đã và đang bắt đầu tác động đến khu vực này, nhất là tình trạng xâm nhập mặn và lũ lụt ngày càng phổ biến. Điều này đang có tác động tàn phá đến người dân sống ở Đồng bằng sông Cửu Long, cũng như môi trường nơi đây. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tài chính xanh có thể giúp ngăn chặn biến đổi khí hậu bằng cách tài trợ cho các dự án năng lượng hiệu quả và năng lượng tái tạo, cũng như hỗ trợ phát triển các công trình xanh, từ đó thúc đẩy phát triển bền vững Đồng bằng sông Cửu Long.
Quy mô tín dụng xanh còn thấp
Hoạt động tín dụng xanh tại Đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua chủ yếu tập trung đầu tư vào các dự án, chương trình, mô hình thuộc lĩnh vực nông nghiệp xanh; nước sạch và vệ sinh môi trường; năng lượng sạch; phát triển mô hình sản xuất – kinh doanh nông sản – thủy sản; mô hình du lịch sinh thái nhà – vườn; … hỗ trợ cho chiến lược tăng trưởng xanh của vùng. Hoạt động này chủ yếu thể hiện qua việc cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hay cá nhân thông qua việc đánh giá và quản lý rủi ro của các chương trình, dự án đầu tư, trong đó có rủi ro môi trường.
Thạc sỹ Nguyễn Quốc Bình, Khoa Tài chính-Ngân hàng, Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh-Phân hiệu Vĩnh Long chia sẻ, kết quả khảo sát tình hình hoạt động tín dụng của ngành ngân hàng tại 5 tỉnh thuộc Đồng bằng sông Cửu Long (An Giang, Kiên Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang và Sóc Trăng) cho thấy, thị trường tín dụng xanh tại các địa bàn này đã được thúc đẩy phát triển từ năm 2016. Các khoản vay chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp sạch như nâng cao chất lượng và an toàn cho sản phẩm nông nghiệp, thích ứng với biến đổi khí hậu; du lịch sinh thái, xây dựng khách sạn; các chương trình tín dụng tạo sinh kế và nâng cao mức sống của người dân; chương trình tín dụng nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nhằm xóa đói giảm nghèo và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Lãi suất giảm từ 0,5 – 1,5%/năm so với lãi suất ưu đãi cho vay thông thường.
Video đang HOT
Giai đoạn 2016 – 2021, tăng trưởng tín dụng xanh đã tăng từ 3.722 tỷ đồng vào cuối năm 2016 lên 13.131 tỷ đồng vào cuối năm 2021. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh luôn cao hơn so với tăng trưởng của tổng dư nợ tín dụng, tăng trưởng bình quân đạt 30,32%, tương ứng với tăng 1.882 tỷ đồng/năm. Mặc dù có sự tăng trưởng cao qua các năm nhưng quy mô tín dụng xanh vẫn còn thấp so với tổng dư nợ tín dụng. Tính riêng trong năm 2021, dư nợ tín dụng của 5 tỉnh này đạt 286.696 tỷ đồng. Tuy nhiên, quy mô tín dụng xanh chỉ chiếm 4,58% tổng dư nợ, tương ứng với 13.131 tỷ đồng. Các khoản vay tín dụng xanh chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp xanh (chiếm 46,57%), lĩnh vực quản lý nước sạch và vệ sinh môi trường bao gồm nguồn vốn Trung ương và địa phương (chiếm 25,53%).
Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long Lý Nhật Trường cho biết, việc phát triển tín dụng xanh hiện gặp không ít khó khăn. Nguyên nhân là tiêu chí xanh hiện chưa được đề cập đầy đủ trong khuôn khổ pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng hiện hành về hoạt động cho vay, bảo lãnh, chiết khấu… Điều này dẫn tới khó khăn cho các Ngân hàng thương mại trong việc triển khai thực hiện lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh. Đồng thời, lĩnh vực xanh hiện vẫn thiếu khuôn khổ pháp lý, các tiêu chí đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường để hỗ trợ xây dựng chính sách, sản phẩm phát triển tín dụng xanh.
Bên cạnh đó, nhận thức và năng lực của các tổ chức tín dụng trong phát triển các sản phẩm tín dụng xanh mới ở bước đầu và còn hạn chế. Đội ngũ nhân viên ngân hàng chưa được đào tạo chuyên sâu, bài bản trong thẩm định, đánh giá và quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Mặt khác, cho vay lĩnh vực tín dụng xanh về cơ bản chưa có sự khác biệt với các khoản vay khác của ngân hàng, chưa có cơ chế ưu đãi rõ ràng, trong khi chi phí đầu tư rất lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài, về lãi suất cho vay các dự án xanh chưa có sự khác biệt nhiều so với một số lĩnh vực ưu tiên khác.
Cần đặt tiêu chuẩn môi trường khắt khe với nhà đầu tư
Theo Thạc sỹ Nguyễn Quốc Bình, tại Đồng bằng sông Cửu Long, các hoạt động kinh tế vẫn còn phụ thuộc vào khai thác tài nguyên và sử dụng lao động giá rẻ; chưa có những yếu tố hấp dẫn như năng lực kỹ thuật và môi trường đầu tư tốt để thu hút các dự án công nghệ cao. Nhiều địa phương hiện nay vẫn chủ yếu đặt các ưu tiên cho phát triển kinh tế ngắn hạn hơn là mục tiêu dài hạn mang tính bền vững gắn với vấn đề an sinh xã hội, bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, một số dự án không thân thiện, thậm chí có nguy cơ cao đối với môi trường đã được cấp phép đầu tư mà thiếu sự cân nhắc đầy đủ về bảo vệ môi trường. Nhiều vụ việc gây ô nhiễm môi trường buộc chính quyền địa phương phải xử lý trong thời gian qua.
Một trong những khó khăn lớn nhất của việc thực hiện chính sách tín dụng xanh là việc thiếu đi một hệ thống đánh giá đáng tin cậy về các ngành nghề và các cơ sở gây ô nhiễm môi trường để làm cơ sở phân loại dự án. Đặc biệt là khi nhiều ngành gây ô nhiễm cũng đang là những ngành mang lợi nhuận cao cho nhiều địa phương. Đối với những chương trình, dự án, mô hình này không được đánh giá một cách đầy đủ dễ dẫn đến rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
“Với vai trò của ngân hàng là cung ứng vốn cho các chủ thể trong nền kinh tế, thông qua đó tạo ra những tác động gián tiếp đến môi trường, khi ngân hàng tăng cường quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cho vay sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất theo hướng sạch hơn. Khi đó, hoạt động tín dụng xanh sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thân thiện với môi trường, tích cực hỗ trợ cộng đồng.”- Thạc sỹ Nguyễn Quốc Bình đề xuất.
Hoàn thiện các quy định về tín dụng xanh
Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Chi nhánh tỉnh Vĩnh Long Lý Nhật Trường cho rằng, để phát triển tín dụng xanh trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sớm sửa đổi các quy định hiện hành theo hướng đưa quy định về tín dụng xanh vào các quy định về cho vay, bảo lãnh, xử lý rủi ro, lãi suất… để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng cụ thể hóa thực hiện. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành quy định về quản lý rủi ro môi trường trong cấp tín dụng của tổ chức tín dụng và đưa tín dụng xanh là một trong những lĩnh vực ưu tiên nhằm có cơ chế ưu đãi về điều kiện, lãi suất.
Đối với các chi nhánh tổ chức tín dụng cần chủ động hơn nữa trong việc triển khai thực hiện đầy đủ các gói sản phẩm tín dụng xanh theo chỉ đạo của hội sở phù hợp với các lĩnh vực thế mạnh của địa phương, nhất là lĩnh vực nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, điện năng lượng mặt trời, các sản phẩm tín dụng tiêu dùng xanh… Đồng thời, các chi nhánh tổ chức tín dụng đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh trên địa bàn tiếp cận các gói tín dụng xanh với mức lãi suất hợp lý, phù hợp với điều kiện tại địa phương.
Đặc biệt, việc phát triển tín dụng xanh cần sự phối hợp của các ngành, các cấp trong việc quy hoạch, phát triển đồng bộ các lĩnh vực nông nghiệp xanh, công nghiệp xanh, thương mại dịch vụ xanh… tạo nền tảng vững chắc cho tín dụng xanh phát triển. Đây là vai trò chính của chính quyền địa phương các cấp, căn cứ vào các chính sách của Chính phủ để tham mưu thực hiện quy hoạch, phát triển các dự án thân thiện với môi trường, thúc đẩy các ngành sản xuất, dịch vụ và tiêu dùng xanh, năng lượng sạch và năng lượng tái tạo.
Huy động nguồn lực tài chính cho mục tiêu phát triển xanh
Tại Hội nghị "Thu hút nguồn lực hỗ trợ thực hiện các mục tiêu phát triển xanh và phát triển bền vững" diễn ra ngày 16/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng khẳng định: Phát triển xanh, tăng trưởng bền vững, giảm dần sử dụng các nguyên liệu hóa thạch và tăng tỷ trọng dùng năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế đang là xu thế của nhiều nền kinh tế trên thế giới và các quốc gia đang phát triển.
Lãnh đạo NHNN Việt Nam làm việc với Nhóm công tác Ngân hàng (BWG). Ảnh: SBV.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, thời gian qua, Việt Nam và thế giới đã phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có như COVID-19; bất ổn địa chính trị; biến đổi khí hậu, suy giảm kinh tế toàn cầu... Cùng với cả nước, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hỗ trợ các cá nhân, doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, đối phó với tác động tiêu cực của dịch bệnh, phát huy được vai trò huyết mạch của nền kinh tế, qua đó góp phần vào sự phục hồi, ổn định của nền kinh tế.
"Ngành Ngân hàng luôn tích cực và nỗ lực hướng đến các mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050, với một loạt những hoạt động, kết quả quan trọng. Cụ thể: Phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam, xây dựng Chương trình hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, xây dựng Thông tư về quản lý rủi ro môi trường, xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, tăng dần tỷ trọng dư nợ tín dụng xanh", Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.
Đánh giá cao sự hỗ trợ tích cực của NHNN và các bộ, ban ngành liên quan quan dành cho kênh đối thoại chính sách của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua, bà Michele Wee, Chủ tịch Nhóm công tác Ngân hàng, Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam khẳng định: Với định hướng, lộ trình của NHNN và sự nỗ lực không ngừng của các tổ chức tín dụng, tín dụng xanh đang có những bước phát triển tích cực và ngày càng được quan tâm, với hạn mức đầu tư tăng lên từng ngày.
"Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi tăng trưởng xanh đòi hỏi sự thay đổi đáng kể trong đầu tư, trong khi đó việc phát hiện và tiếp cận các nguồn tài trợ biến đổi khí hậu mới cũng như lồng ghép vấn đề môi trường và khí hậu vào các chiến lược tài chính doanh nghiệp vẫn còn là các thách thức lớn đối với các chính phủ, các doanh nghiệp và các tổ chức đang tìm kiếm cách thức thực hiện các chiến lược, các kế hoạch và các dự án các-bon thấp", bà Michele Wee cho biết.
Để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu và phát thải ròng bằng "0", bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến: Việt Nam sẽ cần huy động nguồn lực tài chính thêm khoảng 6,8% GDP hằng năm, tương đương với khoảng 368 tỷ USD từ nay đến 2040, trong đó cần huy động từ khu vực tư nhân khoảng 50%. Nhu cầu đầu tư sẽ tập trung lớn vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp.
Với yêu cầu trên, các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức liên quan, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội cần phải nỗ lực triển khai các nhiệm vụ, hoạt động đã được xác định trong thời gian tới, trong đó huy động nguồn lực tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc khẳng định.
Thúc đẩy kinh tế tuần hoàn - Bài 2: Xu hướng chuyển dịch sang năng lượng tái tạo Phát triển năng lượng xanh, còn gọi là năng lượng tái tạo hay năng lượng sạch đang dần chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế bền vững ở các nước. Không nằm ngoài xu thế đó, Chính phủ Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều chính sách, cam kết mạnh mẽ nhằm thúc đẩy việc sử dụng năng lượng...