Tăng hiệu quả thiết thực từ nguồn vốn tín dụng chính sách
Thực hiện cho vay 14 chương trình tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác, trong thời gian qua Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh Bến Tre đã thực hiện giải ngân có hiệu quả vốn chính sách tín dụng ưu đãi, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016 – 2021 của tỉnh Bến Tre từ 10,01% xuống còn 4,26%.
Theo bà Nguyễn Thị Bé Mười – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, qua 8 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, nguồn vốn tín dụng chính sách được đầu tư đến 100% xã, phường, thị trấn trong tỉnh, nguồn vốn tập trung ưu tiên hỗ trợ người dân ở các địa bàn khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
Cán bộ tín dụng chính sách tư vấn cho người dân Bến Tre.
Theo đó, Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh Bến Tre đã thực hiện giải ngân vốn chính sách tín dụng ưu đãi cho 296.500 lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách tiếp cận đồng vốn tín dụng ưu đãi để phục vụ hoạt động dịch vụ, sản xuất kinh doanh với số tiền hơn 7.200 tỷ đồng.
Từ đó, đã giúp trên 12.300 hộ vượt qua ngưỡng nghèo; gần 133.000 hộ gia đình xây dựng được trên 235.000 công trình nước sạch, công trình vệ sinh đảm bảo môi trường; giúp gần 9.750 học sinh, sinh viên trang trải các khoản chi phí học tập sinh hoạt; duy trì, tạo việc làm cho gần 23.000 lao động; gần 1.200 lao động được đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; cho vay hỗ trợ xây dựng được 958 ngôi nhà cho hộ nghèo; cho vay để sửa chữa, xây dựng mới 105 ngôi nhà…
Mặt khác, cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức chính trị – xã hội, đã phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội thực hiện tuyên truyền, vận động thành viên tổ Tiết kiệm và vay vốn tích cực tham gia gửi tiền tiết kiệm hàng tháng thông qua tổ Tổ Tiết kiệm và vay vốn, nhằm tạo thói quen tích lũy và hỗ trợ người nghèo từng bước tiếp cận với dịch vụ ngân hàng.
Đồng thời, thực hiện huy động các nguồn vốn từ các tổ chức và cá nhân trên thị trường, giúp cho Ngân hàng chính sách xã hội chủ động hơn về nguồn vốn. Đến cuối tháng 10/2022, nguồn vốn huy động đạt gần 594 tỷ đồng, tăng 465 tỷ đồng so với cuối năm 2014; trong đó, nguồn vốn huy động qua tổ Tiết kiệm và vay vốn là 237 tỷ đồng, tăng 166 tỷ đồng so với năm 2014.
Bà Nguyễn Thị Bé Mười cho rằng, thông qua việc tổ chức thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, cấp ủy chính quyền địa phương các cấp, nhất là sức mạnh của các đoàn thể chính trị – xã hội cùng tham gia thực hiện chương trình giảm nghèo, chăm lo cuộc sống cho người nghèo và các đối tượng chính sách, hướng dẫn và tạo điều kiện cho họ biết cách làm ăn, từng bước chuyển biến nhận thức, vươn lên thoát nghèo bền vững.
Video đang HOT
Nguồn vốn cho vay ưu đãi thông qua Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh tỉnh đã khắc phục tình trạng thiếu vốn, thiếu việc làm, ngăn chặn tệ nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. Cùng đó, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đời sống nhân dân tại vùng sâu, vùng xa được nâng lên, điều kiện kinh tế được cải thiện, ổn định trật tự an toàn xã hội, củng cố lòng tin nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, hiện nay nhu cầu vay vốn của một số chương trình tín dụng rất cao nhưng nguồn vốn còn hạn chế như: Cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; chương trình cho vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn.
Mặt khác, nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội chi nhánh tỉnh để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách chiếm tỷ trọng 3,37% tổng nguồn vốn, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của hộ nghèo và các đối tượng chính sách tại địa phương.
Để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội, trong thời gian tới, UBND tỉnh, các sở, ban, ngành của tỉnh và các địa phương sẽ triển khai các giải pháp tăng cường nguồn vốn cho Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh thực hiện các chương trình tín dụng chính sách xã hội.
Theo đó, tiếp tục cân đối, ưu tiên bố trí nguồn vốn từ ngân sách tỉnh ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng tích hợp các chương trình tín dụng chính sách xã hội trong quyết định đầu tư công, các chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình, đề án khác trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2021-2030.
Trong giai đoạn 2023-2025 bổ sung vốn ủy thác 300 tỷ đồng (100 tỷ đồng/năm); phấn đấu đến năm 2025 nguồn vốn ủy thác từ ngân sách địa phương sang Ngân hàng Chính sách xã hội đạt khoảng 400 tỷ đồng và tiến tới đạt bình quân cả nước vào năm 2030.
Để thực hiện đạt mục tiêu định hướng, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Lao động Thương binh và Xã hội phối hợp với các sở, ngành có liên quan tham mưu xây dựng Đề án, lộ trình cụ thể (mỗi năm tăng khoảng 100 tỷ đồng), tập trung ủy thác vốn để cho vay giải quyết việc làm để nâng cao thu nhập, xây dựng công trình nước sạch và vệ sinh môi trường,… góp phần thực hiện Đề án thí điểm về an sinh xã hội giai đoạn 2021- 2025, tầm nhìn 2030, giảm nghèo bền vững và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Ngoài ra, tỉnh Bến Tre cũng đề xuất, kiến nghị Chính phủ và các bộ, ngành chức năng bổ sung đối tượng vay vốn tín dụng chính sách đối với hộ làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp có mức sống trung bình, tạo điều kiện cho các đối tượng này có điều kiện tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính sách để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu.
Đồng thời, nâng mức cho vay đối với chương trình hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn theo Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đối với hộ gia đình từ 50 triệu đồng lên 100 triệu đồng/hộ mà không phải thế chấp tài sản; nâng mức cho vay tối đa đối với chương trình cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn từ 10 triệu đồng/công trình lên 20 triệu đồng/công trình để phù hợp với giá trị xây dựng của thị trường, đảm bảo đáp ứng chi phí cần thiết để hộ dân xây dựng công trình đảm bảo chất lượng; bổ sung nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm cho Bến Tre….
Gần một nửa số trường hợp mang thai là ngoài ý muốn
Báo cáo mới nhất cho biết 0,9% nữ giới từ 15 - 24 tuổi tại VN từng quan hệ tình dục trước tuổi 15.
Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (Bộ Y tế), tại VN, thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình triển khai trong thời gian qua, nước ta vẫn duy trì được mức sinh thay thế trên phạm vi cả nước. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (15 - 49 tuổi) là 2,1 con.
Theo UNFPA, trên toàn cầu ước tính có khoảng 257 triệu phụ nữ muốn tránh thai nhưng chưa sử dụng các biện pháp tránh thai an toàn, hiện đại. Ảnh SHUTTERSTOCK
Tuy nhiên, mức sinh rất chênh lệch giữa các vùng miền, tỉnh thành, đặc biệt mức sinh ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn còn cao, nhu cầu kế hoạch hóa gia đình vẫn tiếp tục tăng lên.
Nhóm dân số vị thành niên/thanh niên (10 - 19 tuổi) hiện nay của nước ta là hơn 14 triệu người, chiếm 14,43% tổng dân số. Trong đó, nữ giới chiếm 48,33% tổng vị thành niên/thanh niên. Riêng nhóm tuổi từ 15 - 19 là 6,6 triệu người, chiếm 6,77% tổng dân số cả nước.
Kết quả Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ VN 2020 - 2021 cho thấy: Tỷ lệ phá thai chung được ước tính là 4,7 ca trên 1.000 phụ nữ. Mang thai ngoài ý muốn chiếm hơn một nửa số ca phá thai gần đây nhất (53,6%). 8,9% ca phá thai liên quan đến việc thất bại khi sử dụng biện pháp tránh thai. Lý do phá thai do lựa chọn giới tính thai nhi chiếm tỷ lệ 1,6%.
Tỷ lệ nữ giới từ 15 - 24 tuổi từng quan hệ tình dục trước tuổi 15 là 0,9% và nam giới là 0,2%. Tỷ lệ nữ trong độ tuổi 20 - 24 tuổi kết hôn trước 18 tuổi còn cao (14,6%). Việc kết hôn sớm dẫn đến khả năng mang thai sớm và sinh con sớm, ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của chính vị thành niên/thanh niên.
Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đang phối hợp với các đối tác, đơn vị tài trợ triển khai các chương trình trang bị thông tin, kiến thức về sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, kế hoạch hóa gia đình và tình dục an toàn cho vị thành niên/thanh niên. Trong đó, quan tâm đến việc giải quyết các nhu cầu chưa được đáp ứng về bảo vệ sức khỏe của phụ nữ bao gồm cả vấn đề hạ thấp tỷ lệ mang thai ngoài ý muốn.
Theo Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), mỗi năm, gần một nửa số trường hợp mang thai trên thế giới, tương đương 121 triệu ca, là mang thai ngoài ý muốn. Hơn 60% số trường hợp mang thai ngoài ý muốn dẫn đến việc phá thai, và ước tính khoảng 45% số ca phá thai là không an toàn, chiếm 5 - 13% số ca tử vong mẹ. "Báo cáo này là lời cảnh tỉnh cho chúng ta. Số trường hợp mang thai ngoài ý muốn quá lớn cho thấy thất bại toàn cầu trong việc bảo vệ những quyền con người cơ bản của phụ nữ và trẻ em gái", tiến sĩ Natalia Kanem, Giám đốc điều hành của UNFPA, nhận định.
72,8% phụ nữ 15 - 49 tuổi hiện đang có chồng hoặc chung sống như vợ chồng có sử dụng biện pháp tránh thai, trong đó 59,8% sử dụng các biện pháp hiện đại và 13% sử dụng các biện pháp truyền thống.
Biện pháp tránh thai truyền thống, hay còn gọi là tránh thai tự nhiên, là biện pháp không cần dụng cụ, không dùng thuốc men hay thủ thuật nào để ngăn cản sự thụ tinh, là biện pháp dựa theo vòng kinh để tính ngày trứng rụng nhằm tránh thời gian người phụ nữ dễ thụ thai.
Trong số các biện pháp tránh thai hiện đại, đặt vòng tránh thai vẫn là biện pháp chiếm ưu thế (23,7%), sau đó là thuốc tránh thai (16%) và bao cao su nam (15,3%); thuốc tiêm, que cấy dưới da và bao cao su nữ chiếm một tỷ lệ nhỏ.
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại thấp hơn ở phụ nữ sống ở vùng Đông Nam bộ (53,6%) và thuộc nhóm dân tộc Khmer (52,4%).
Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai truyền thống cao hơn ở phụ nữ sống ở Tây nguyên (17,5%), vùng Đông Nam bộ (16,2%) và ở độ tuổi 40 - 49 (trên 16%).
(Nguồn: Điều tra các mục tiêu phát triển bền vững về trẻ em và phụ nữ VN 2020 - 2021)
Đông ấm áp với trẻ em vùng cao Sơn La "Chương trình Đông ấm Sơn La 2022" là chương trình tình nguyện hướng đến đối tượng là đồng bào và các em học sinh nghèo vùng cao, vùng sâu, vùng xa của xã Tân Xuân, huyện Vân Hồ; là nguồn động viên về tinh thần giúp đồng bào thêm ấm lòng; góp phần tạo niềm tin, động lực để các em thiếu nhi...