Tâm sự lính nhà giàn
Sống giữa mênh mông sóng nước đương nhiên là khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, nhưng với lời thề thiêng liêng trước nhân dân là gìn giữ chủ quyền biển đảo, họ đã vượt qua mọi trở ngại để sống vui tươi, yêu đời. Họ luôn có những hy sinh thầm lặng, những riêng tư gác lại cho nhiệm vụ lớn, cho những mùa xuân bình yên trên vùng biển Tổ quốc.
Thiếu tá Nguyễn Văn Đồng đang ghi nhật ký
Những ngày đầu cuộc sống trên nhà giàn còn khó khăn, người lính xa nhà chỉ trông vào những lá thư từ đất mẹ mà có khi 2 tháng trời mới được nhận. Sóng gió mùa biển động đôi khi còn tràn cả lên sàn nhà giàn. Nhu yếu phẩm phục vụ sinh hoạt rất khan hiếm, lặng sóng mới câu cá cải thiện được. Thiếu tá Nguyễn Văn Đồng – chỉ huy trưởng nhà giàn DK1/7 cho biết đợt này anh ra thay ca cho đồng đội về ăn tết. Ra nhà giàn lần đầu năm 1997, 16 năm nay Thiếu tá Nguyễn Văn Đồng không nhớ rõ mình đã đi bao nhiêu chuyến nữa. “Gần ba phần tư thời gian là ăn tết ngoài giàn!”, anh Đồng nói.
Với sự đầu tư chăm chút của đất liền, nhà giàn giờ không thiếu thứ gì. Ti vi, tủ lạnh, hội trường, đất trồng rau xanh, sân thượng, các dụng cụ phục vụ cho rèn luyện cơ thể đến cả sóng điện thoại họ cũng có. Nhưng khó khăn nhất của người lính nhà giàn là nỗi khổ xa nhà. Trung bình mỗi năm những người lính như anh Đồng ở nhà giàn đến 8 tháng, về đất liền vẫn làm chuyên môn bình thường. Nhà ở Bình Dương, mỗi khi anh Đồng đi nhà giàn, công việc bộn bề của gia đình cùng 2 con nhỏ lại trông vào đôi vai người vợ giáo viên. “Lính nhà giàn khó lấy vợ vì hay xa nhà, 34 tuổi tôi mới lập gia đình. Mãi rồi cũng thông cảm, cô ấy giờ là “tư lệnh” hậu phương lớn, đi cũng yên tâm phần nào”, anh Đồng chia sẻ. Quê tận Hà Tĩnh, bố bị liệt đã 2 năm nay, anh Đồng xúc động kể: “Bố tôi bảo, con không phải lo cho sức khỏe của bố. Cứ vững tâm đi làm nhiệm vụ”. Câu nói đó luôn đi theo anh như một lời nhắc nhở.
Thiếu tá Nguyễn Văn Đồng đã viết hàng chục quyển nhật ký để giải tỏa phần nào những cảm xúc của mình. Mỗi quyển được viết riêng cho con, cho vợ, cho đồng đội, cho chính mình… Trong gian khó, thiếu vắng ấy, tình đồng chí luôn ấm áp trên các nhà giàn. Nhiều anh em sẵn sàng nhường nhau các kỳ nghỉ phép, thậm chí cả kỳ về đất liền.
Cũng vì ít được giao lưu nên lính nhà giàn rất hay làm thơ. Có những bài thơ đã nổi tiếng, nằm trong sổ tay bất kỳ người lính nhà giàn nào. “Bao đêm anh ở nhà giàn/Biển trời thấp thoáng muôn ngàn vì sao/Sóng đêm nỗi nhớ cồn cào/Gió đưa hơi thở dội vào phương em…”, những cảm xúc chân thực, mộc mạc nhưng không kém phần da diết như chính những người lính nhà giàn kiên cường nhưng giàu tình cảm.
Thiếu uý Nguyễn Văn Cường chuẩn bị lên nhà giàn nhận nhiệm vụ
Đám cưới “made in” lính nhà giàn
Thiếu úy Nguyễn Văn Cường (24 tuổi, Chính trị viên nhà giàn DK1/16) vừa đăng ký kết hôn xong thì nhận lệnh lên đường ra nhà giàn. Đám cưới phải tạm hoãn, nhưng Thiếu úy Cường quả quyết: “Em không buồn anh ạ, đi xong đợt này bọn em cưới. Lính nhà giàn nên lúc nào em cũng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Vợ em cũng rất thông cảm”. Vợ Cường là cô giáo dạy văn, cùng quê Hà Tĩnh với Cường, hai huyện cách nhau đến hơn trăm kilômét. Yêu nhau 7 năm, phần lớn thời gian là xa nhau. Cường nhớ mãi lần vào Huế thăm bạn gái, vì xe đến muộn phải ngủ ở công viên mấy tiếng đồng hồ mới gặp được bạn gái. Để thuận tiện công việc cho người yêu, cô gái vừa tốt nghiệp đã xin vào Vũng Tàu làm giáo viên dạy văn. “Chia tay nhau lên đường, bọn em chỉ nắm tay và nhìn nhau thôi, không cần nhiều lời anh ạ”, Thiếu úy Cường tâm sự. Thế đấy, tình yêu người lính sao mà đơn sơ đến thế. Chỉ vậy mà người ta có thể chờ nhau đến hàng chục năm như trong thời chiến. Họ sẵn sàng đảm việc nước, lo việc nhà để chồng làm nhiệm vụ.
Video đang HOT
Lần đầu tiên ra nhà giàn, lần đầu tiên đi tàu, lần đầu tiên ăn tết ngoài biển, trên đường ra nhà giàn DK1/16 nhận nhiệm vụ, Thiếu úy Cường cũng bị say sóng không kém chúng tôi. Thế mà Cường vẫn nói : “Em tuổi Quý Tỵ, làm lính nhà giàn là hợp nhất rồi anh ạ”. Trong đêm sóng dữ dội, Cường nằm kể cho tôi nghe chuyện về người lính nhà giàn mà Cường rất thích. Đó là chuyện tình yêu của Trung úy Nguyễn Việt Dũng, nhà giàn DK1/2. Sau nhiều sóng gió, Trung úy Dũng và người yêu quyết định tổ chức đám cưới vào ngày 24 tết (năm 2008). Lúc đó toàn bộ đám cưới đã chuẩn bị đầy đủ. Bộ vest tinh tươm chỉ đợi chú rể từ nhà giàn về là mặc. Đúng lúc đó ngoài biển, sóng to gió lớn không thể cập thuyền, Trung úy Dũng phải xuống thuyền bằng cách đu dây. Về đến nhà, đám cưới đã xong ba ngày. Đêm tân hôn không chú rể, cô dâu ôm gối nằm khóc một mình… “Đến năm 2010, anh chị ấy mới làm đám cưới lại anh ạ, giờ vẫn hạnh phúc lắm. Đấy, yêu thế mới là yêu chứ”, Thiếu úy Cường tâm đắc.
Nhiều lính nhà giàn do bận công tác giờ vẫn “phòng không”, nhiều người mải mê với công việc mà tóc đã bạc vẫn chưa chịu lấy vợ. Màu tóc ấy là màu của những đêm trắng trực nhà giàn trong bão tố, màu của thời gian, màu của sự hy sinh thầm lặng… Hạnh phúc đôi khi là những điều tưởng chừng giản dị nhất quanh ta, như mỗi dải san hô, mỗi vùng biển bình yên của tổ quốc.
Theo ANTD
Những cánh thư bi tráng gửi về từ chiến trường
Những bức thư úa màu thời gian, không còn nguyên vẹn vì bom đạn nhưng vẫn chứa chan tình cảm của tiền tuyến gửi về hậu phương. Đó là hàng trăm bức thư của những người lính gửi cho những người vợ, người mẹ nơi quê nhà.
136 bức thư của liệt sỹ Nguyễn Anh Mậu gửi vợ là chị Hoàng Thị Síu được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4
Chiến tranh đi qua nhưng có một nơi trong lòng thành phố Vinh (Nghệ An), ký ức về những cuộc chiến vệ quốc thần thánh của dân tộc vẫn hiển hiện, sống động bằng những hiện vật của người lính. Những vỏ đạn pháo, chiếc bình tông hay chiếc dép, chiếc khăn tay của người chiến sĩ được sắp xếp ngay ngắn theo từng khu vực của Bảo tàng quân khu 4.
Trong những hiện vật, kỷ vật tìm kiếm, cất bốc cùng các ngôi mộ liệt sĩ có tên và chưa biết tên có những lá thư đã mủn vì thời gian hay rách nát, thủng lỗ chỗ vì bom đạn chiến tranh. Ở đó có lý tưởng, hoài bão của cả một thế hệ và cả tình yêu nồng nàn cháy bỏng của những người đã mãi mãi nằm lại ở tuổi đôi mươi.
Tấm ảnh cưới của vợ chồng anh Mậu được chị Síu tặng lại cho Bảo tàng
136 bức thư của liệt sĩ Nguyễn Anh Mậu (đoàn 559) gửi cho người vợ mới cưới Hoàng Thị Síu (quê ở Hưng Yên) được xếp riêng một khu vực. Đó là những bức thư được viết trong khoảng thời gian 1963 - 1968. Ngoài 136 bức thư, Bảo tàng quân khu 4 còn lưu giữ cả nhật ký, cuốn sổ ghi lại lời thề của anh chị ngày nên vợ, nên chồng. Những kỷ vật này đã được chính chị Síu tặng lại bảo tàng.
Những lá thư được gửi từ những địa chỉ khác nhau, dọc đường hành quân của người lính trẻ. Tất cả đều thấm đẫm những yêu thương nồng cháy của người lính gửi cho người vợ - hậu phương vững chắc của mình. Nhưng bao trùm trong đó là tình yêu đất nước, là hoài bão "vì Tổ quốc quyết sinh" của cả một thế hệ trong thời kỳ "cả nước ra trận".
Trong một bức thư, anh Mậu viết: "Síu ạ! Vì chiến tranh chúng mình có bị thiệt thòi mọi mặt, nhất là về tình cảm em nhỉ? Đó là tất nhiên em ạ. Trong giai đoạn lịch sử vĩ đại này, việc giải phóng miền Nam là thời cơ hiếm có. Rồi mai đây cách mạng thành công, chúng ta còn có một ít vốn để nói chuyện với con cháu chứ".
Bên cạnh những bức thư gửi về từ chiến trận là lời thề, quyết tâm xây dựng cuộc sống gia đình hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ
Những bức thư được viết với nét chữ mềm mại, nắn nót. Cũng có những lá thư viết vội vã giữa những lần nghỉ hiếm hoi trên đường hành quân hay giữa những trận bom ác liệt của quân thù. Rồi những lá thư đó đã không còn được tiếp tục gửi về hậu phương bởi anh đã ngã xuống trên đường ra trận. Những lá thư của anh được chị cất giữ như báu vật. Cho đến khi chị đi bước nữa và yên ấm mới gia đình mới với 3 đứa con, chị vẫn dành cho anh, cho những lá thư nối dài yêu thương một góc thiêng liêng trong lòng mình.
Một lần nằm viện, chị Síu tình cờ gặp thượng tá Nguyễn Thị Tiến - hồi đó là Phó Giám đốc Bảo tàng quân khu 4 và đồng ý trao lại 136 bức thư của liệt sĩ Nguyễn Anh Mậu cho bảo tàng. Và câu chuyện tình yêu của anh chị đã trở thành câu chuyện cảm động tại phòng trưng bày di vật liệt sĩ Bảo tàng quân khu 4.
Một trong những bức thư liệt sỹ Nguyễn Anh Mậu gửi vợ được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4
Theo Dantri
Bức thư của liệt sĩ Đậu Sỹ Hùng (SN 1941, quê xã Công Thành, Yên Thành, Nghệ An), là Trung đội phó đơn vị C2D45764 viết cho vợ là Nguyễn Thị Tâm cũng chứa đựng tình yêu đất nước lớn lao, tình yêu đó đã gói gọn tình yêu trai gái đơn thuần. Anh hy sinh tại mặt trận phía Nam vào giữa năm 1967, hài cốt được tìm thấy ở bản Mây, xã Tà Ria, Sepin, tỉnh Xavannakhet, nước bạn Lào.
Trong những ngày chiến đấu ác liệt với kể thù cướp nước, đứng giữa ranh giới mong manh của cái sống và cái chết, anh viết những dòng thư vội vã gửi về động viên người vợ trẻ đau đáu chờ đợi ở quê nhà. "Anh ra đi, có hy sinh tính mạng cho Tổ quốc thì em cũng phải can đảm, bớt đau khổ, đừng khóc lóc buồn nản. Em thay anh dạy dỗ con, để có người nối nghiệp. Giọt máu đầu tiên của anh và em cũng có thể là giọt máu cuối cùng.
Những bức thư của liệt sỹ Đậu Sỹ Hùng gửi cho vợ là chị Nguyễn Thị Hòa
Đó là lẽ dĩ nhiên trong cuộc sống của những người lính chiến đấu. Nếu anh có chết đi em nhớ sau này nói cho con nghe về người cha của nó chưa bao giờ nhìn thấy. Em cố gắng giữ bức thư này cho đến ngày thống nhất nếu anh còn về với mẹ con em. Nếu không, bức thư này em sẽ giữ mãi cho tới khi con khôn lớn, em giao lại cho con.
Em yêu, kể từ tháng này anh sẽ gửi về cho em mỗi tháng một lá thư. Nếu vắng đi vài ba tháng không gửi thì coi như anh vừa có việc xảy ra không lành. Và nếu mỗi khi bắt được thư thì em sẽ viết ngay thư trả lời em nhé!...".
Nào ngờ lời dặn dò của anh lại thành nỗi đau tiên đoán - trong một trận đánh ác liệt, anh đã nằm lại giữa chiến trường, khi chưa một lần được gặp mặt giọt máu của mình.
Lời dặn dò của anh Hùng gửi vợ trước khi hy sinh
Bức thư ngắn nhất, đau xót nhất và cũng ám ảnh chúng tôi nhất là trang giấy cuối cùng trong cuốn nhật ký của liệt sĩ Cao Cự Thìn. Bức thư chỉ vẻn vẹn 2 câu, thấm đầy máu của người lính khi đang ở khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời. Bức thư là lời tạm biệt của người lính gửi tới mẹ, tới những người thân yêu trước khi ngã xuống. "Em không thể sống được. Chào mẹ, anh, cháu".
Trong hàng trăm, hàng ngàn bức thư được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4, ngoài những bức gửi cha mẹ, gia đình, có rất nhiều thư của người lính trận gửi cho vợ hay người yêu. Tình yêu đã giúp người chiến sĩ quên đi mọi khó khăn nhọc nhằn và cả sự đe dọa của cái chết để chiến đấu, hy vọng và tin tưởng.
Trên cái nền xám xịt của chiến trận, trên gam màu tàn khốc của chết chóc, họ vẫn dành một góc trong tâm hồn mình để yêu, để nhớ, để khát vọng về hòa bình, về một ngày mai đẹp đẽ - tương lai mà các anh sẵn sàng hy sinh cả sự sống của mình để có được!
Hậu phương' của những người lính Trường Sa Sinh ra khi bố vắng nhà, chập chững biết đi mới được gặp bố, nằm viện cũng không có bố ở bên nhưng những đứa con của cán bộ, chiến sĩ Trường Sa vẫn tự hào vì được là con của người lính Hải quân. Nguyễn Đức Tâm, con trai đại tá Nguyễn Đức Thắng (Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn Trường Sa) chín...