Tại sao khủng hoảng lương thực do cuộc chiến Ukraine chưa lan tới vùng Vịnh?
Khi chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine gây ra cuộc khủng hoảng lương thực quốc tế, khu vực vùng Vịnh lại chưa chịu tác động như nhiều quốc gia khác.
Ảnh chụp nhà máy khử muối lớn nhất thế giới ở Ras al-Khair, Saudi Arabia vào tháng 10/2020. Ảnh: CNN
Theo kênh CNN, khủng hoảng lương thực khiến một số nước phải nhập khẩu lương thực ở Trung Đông đã bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Liban đang vất vả đối phó với cuộc khủng hoảng bánh mì. Yemen ở giai đoạn mất an ninh lương thực nặng nề nhất, còn Ai Cập đang vất vả kiềm chế giá bánh mỳ.
Thế nhưng, ở những quốc gia khác thậm chí còn khô cằn hơn Trung Đông, khủng hoảng lương thực dường như chưa “gõ cửa”.
Các nhà lãnh đạo các nước Arab ở vùng Vịnh – nơi có chưa đầy 2% diện tích đất canh tác và phải nhập khẩu 85% lương thực – dường như đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho cuộc khủng hoảng lương thực này. Theo các nhà phân tích, bí mật nằm trong chiến lược kéo dài hàng thập kỷ về an ninh lương thực và các nguồn lực để thực hiện chiến lược.
Theo Chỉ số An ninh Lương thực Toàn cầu, Qatar là quốc gia có an ninh lương thực cao thứ 24 trên thế giới tính đến năm 2021, xếp hạng cao nhất trong số các quốc gia Arab vùng Vịnh. Kuwait, Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Oman và Bahrain lần lượt xếp sau. Saudi Arabia đứng ở vị trí 44.
Các quốc gia vùng Vịnh nằm ở những khu vực khô cằn nhất của Bán đảo Arab, không thích hợp để phát triển nông nghiệp diện rộng do nhiệt độ cao, khan hiếm nước, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu ngày càng trở nên tồi tệ hơn.
Các quốc gia vùng Vịnh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phụ thuộc vào nhập khẩu, phải đối mặt với các nguy cơ do gián đoạn nguồn cung và tăng giá.
Các nhà phân tích cho biết mặc dù các quốc gia vùng Vịnh đã lên kế hoạch cho an ninh lương thực từ những năm 1990, nhưng hồi chuông cảnh báo đã gióng lên năm 2008, khi tiền chi cho nhập khẩu lương thực tăng vọt trong bối cảnh lạm phát toàn cầu sau cuộc khủng hoảng tài chính năm đó.
Nguồn cung cấp thực phẩm ở vùng Vịnh bấp bênh sau khi một số nước xuất khẩu lương thực ban hành lệnh cấm xuất khẩu để bảo vệ nguồn cung của chính mình. Theo Economist Intelligence Unit, cú sốc này đã tác động mạnh đến chính sách nông nghiệp và lương thực của khu vực.
Video đang HOT
Qatar đứng đầu vùng Vịnh về an ninh lương thực. Ảnh minh họa: thepeninsulaqatar
Ngày nay, các quốc gia vùng Vịnh đang thực hiện cách tiếp cận khác nhằm hướng tới khả năng tự cung tự cấp, đặc biệt là sau những lo ngại về an ninh lương thực do đại dịch COVID-19 gây ra.
Ông Karen Young, thành viên cấp cao tại Viện Trung Đông tại Washington, cho biết: “Đó là mối quan tâm nhất quán về an ninh lương thực trong bối cảnh khí hậu nóng và khô cằn. Nhưng bây giờ, có nhiều lựa chọn khác và có nhiều tiền hơn cho các lựa chọn thay thế”.
Từ các nhà máy khử muối, nông nghiệp tiết kiệm nước đến tăng cường canh tác thủy canh và mua đất nông nghiệp ở các nước đang phát triển, các quốc gia vùng Vịnh đã và đang chuẩn bị cho tình huống khẩn cấp. Chiến lược này đã có hiệu quả trong cuộc khủng hoảng hiện nay.
Trong số các chiến lược trên, có chiến lược mua đất nông nghiệp giá rẻ ở nước ngoài sau năm 2008 là không được hoan nghênh. Saudi Arabi là một trong những quốc gia vùng Vịnh đầu tư vào nông nghiệp ở các nước như Sudan, Kenya và Ethiopia sau khi phải giảm sản lượng lúa mì khoảng 12,5% hàng năm vào năm 2008 để tiết kiệm nước khan hiếm. Việc mua đất này đã bị các nhà hoạt động chỉ trích vì khiến nông dân nghèo khó tiếp cận đất canh tác và các nguồn tài nguyên.
Một số phương pháp có thể tốn kém, chưa chắc chắn về độ tin cậy và tính bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh cuộc khủng hoảng lương thực tiềm ẩn trên toàn cầu.
Ông Steffen Hertog, phó giáo sư tại Trường Kinh tế London, nói: “Trong trường hợp xảy ra khủng hoảng lương thực toàn cầu thực sự, các nước vùng Vịnh có nguy cơ không thể làm gì nếu các nước mà họ mua đất nông nghiệp cấm xuất khẩu lương thực”.
Các nhà phân tích cho biết ngoài các chiến lược an ninh lương thực, các quốc gia vùng Vịnh còn có vị trí kinh tế vững chắc hơn nhiều so với các nước láng giềng Trung Đông và do đó có thể không chịu ảnh hưởng do gián đoạn nguồn cung cấp thực phẩm.
Ông Young nói với CNN: “Lạm phát đã được kiềm chế tốt hơn ở vùng Vịnh, do tiền tệ gắn liền với USD. Tác động của giá dầu thô tăng đang có lợi cho các nền kinh tế và chính phủ ở đây”.
So với các nền kinh tế khác trong khu vực, người dân ở vùng Vịnh cũng chi ít tiền mua thực phẩm hơn trong chi tiêu tiêu dùng.
UAE có riêng một bộ phụ trách an ninh lương thực và bộ này đã khởi động chiến lược an ninh lương thực quốc gia vào năm 2018. Mục tiêu là nhằm đưa quốc gia này vào top 10 trong Chỉ số An ninh Lương thực Toàn cầu vào năm 2051.
Trồng siêu thực phẩm chịu mặn trên sa mạc, xây dựng trang trại thẳng đứng trong nhà và nhà kính thông minh ở sa mạc Dubai chỉ là một số nỗ lực của UAE nhằm thúc đẩy sản xuất lương thực trong nước.
Qatar đã đưa ra chiến lược an ninh lương thực quốc gia, nhấn mạnh vào đa dạng hóa và lập kế hoạch dự phòng. Do phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu thực phẩm từ các nước láng giềng, trong đó nước này nhập 400 tấn sữa tươi và sữa chua mỗi ngày qua biên giới với Saudi Arabi, Qatar đã phải xây dựng các ngành sữa trên sa mạc để tự sản xuất sữa.
Các khoản đầu tư vào ngành sữa mặc dù không cạnh tranh nổi nếu không được nhà nước trợ cấp, nhưng ngành này đã làm tăng quyền tự chủ chiến lược quốc gia của Qatar trước các nước láng giềng.
An ninh lương thực là một trong những lý do chính gây bất ổn chính trị ở Trung Đông, đặc biệt là Bắc Phi – nơi diễn ra cuộc nổi dậy Mùa xuân Arab năm 2011 khiến nhiều chính phủ bị lật đổ. Do đó, đảm bảo an ninh lương thực có ý nghĩa quan trọng với chính phủ các nước.
Điều kiện để Nga có thể 'nắn dòng' năng lượng sang châu Á thành công
Nga muốn tăng lượng dầu thô và than đá xuất sang Trung Quốc, Ấn Độ. Nhưng lệnh trừng phạt của phương Tây khiến kế hoạch này gặp khó, chỉ có thể thực hiện được nếu Nga đưa ra lời mời chào giảm giá sâu.
Một tàu chở khí hóa lỏng tự nhiên (LNG) từ Nga cập cảng tại Thiên Tân, Trung Quốc. Ảnh: Getty Images
Năm ngoái, Grand Aniva, tàu chở dầu của Nga với bốn bồn chứa khí hóa lỏng (LNG) được làm lạnh ở nhiệt độ âm sâu liên tục có các chuyến đi từ một cơ sở khai thác khí đốt ở miền đông nước Nga tới Nhật Bản, rồi Đài Loan/Trung Quốc. Nhưng hai ngày sau khi Nga mở chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, tàu Grand Aniva đã thay đổi lộ trình, với điểm đến là Trung Quốc.
Hoạt động của tàu Grand Aniva - tàu có chiều dài bằng ba sân bóng đá tiêu chuẩn, cho thấy Moskva vẫn có thể tìm được các khách hàng ở châu Á nhập khẩu các mặt hàng nhiên liệu hóa thạch từ Nga bất chấp việc phương Tây áp lệnh trừng phạt chống Nga. Nhu cầu tìm kiếm khách hàng đối với Mosvka ngày một lớn, nhất là trong bối cảnh Liên minh châu Âu có kế hoạch giảm nhập khẩu dầu thô của Nga theo lộ trình.
Hôm 14/4, Tổng thống Vladimir Putin yêu cầu lãnh đạo các công ty, tập đoàn năng lượng tại Nga phải tìm cách hướng dòng xuất khẩu sang các thị trường đang tăng trưởng mạnh ở châu Á. Hai điểm đến được Nga coi trọng nhất là Trung Quốc - nước nhập khẩu năng lượng lớn nhất thế giới, và Ấn Độ - thị trường tiêu thụ năng lượng đứng thứ 3 thế giới, sau Trung Quốc và Mỹ.
Nhưng việc dịch chuyển xuất khẩu năng lượng của Nga từ châu Âu sang châu Á cũng sẽ gặp phải nhiều thách thức lớn. Nga sẽ cần phải đưa ra mức giá chiết khấu cao đối với dầu thô, than xuất khẩu, đủ để các nhà nhập khẩu cảm thấy bị hấp dẫn, sẵn sàng chấp nhận đối mặt với nguy cơ. Đối với khí đốt, Nga sẽ phải mất nhiều năm để xây thêm các cảng, tuyến đường ống phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Để nắn dòng khí đốt từ châu Âu sang châu Á, Nga cần xây dựng các tuyến đường ống rất dài, hoặc là các cảng chuyên dụng như cảng đặt tại đảo Sakhalin - điểm xuất phát của tàu chở dầu Grand Aniva. Nhưng những cảng như vậy phải được trang bị công nghệ làm lạnh đặc biệt, đủ để biến khí thành chất lỏng để có thể chuyển lên các khoang chứa trên tàu.
Muốn vận chuyển dầu sang châu Á cũng cần phải sử dụng tới vận tải đường biển. Do lệnh trừng phạt của phương Tây chống Nga, các hãng bảo hiểm từ chối cung cấp dịch vụ đối với các tàu chở dầu thô có nguồn gốc từ Nga. Ngân hàng cũng từ chối cấp tín dụng với các lô hàng dầu thô mua của Nga. Vì thế, các công ty nhập khẩu tại một số nước như Ấn Độ đã yêu cầu Nga phải chào mời mức giá chiết khấu rất cao, đủ để đầu mối nhập khẩu trang trải chi phí phát sinh cũng như nguy cơ đến từ các lệnh trừng phạt.
Than xuất khẩu của Nga - thường được chở bằng xe tải, tàu đường sắt tới Trung Quốc, ít phải đối mặt với những rào cản về logistics. Nhưng xuất khẩu mặt hàng này chỉ đạt giá trị khoảng 10% và 25% lần lượt so với xuất khẩu dầu thô đối và khí đốt của Nga. Việc phương Tây cấm giao dịch bằng đồng USD liên quan đến giao dịch, xuất khẩu của Nga khiến nhu cầu nhập khẩu than từ Trung Quốc suy yếu.
Hoạt động xây dựng trên tuyến đường ống Siberia dẫn khí đốt từ Nga sang Trung Quốc. Ảnh: Bloomberg
Bất chấp những thách thức nêu trên, giới lãnh đạo trong ngành năng lượng toàn cầu dự đoán Nga vẫn có thể tìm ra cách thức thúc đẩy xuất khẩu năng lượng, ít nhất là với mặt hàng dầu thô và than do nhu cầu nhập khẩu với sản phẩm này đối với hai sản phẩm này tiếp tục tăng cao. Thế giới từng chứng khiến thiếu hụt năng lượng vào mùa thu năm ngoái, khi Trung Quốc hết than, đẩy nền kinh tế nước này rơi vào tình cảnh bị cắt điện, thiếu điện cho sản xuất.
Giá khí đốt, dầu thô, than đã tăng mạnh kể từ năm ngoái. Việc chặn xuất khẩu năng lượng nhằm vào Nga - như cách EU đang lên kế hoạch về trừng phạt dầu thô, sẽ khiến các sản phẩm này tăng cao. Một số lãnh đạo trong ngành dầu mỏ toàn cầu hiện kêu gọi áp dụng các chính sách linh hoạt hơn, theo hướng không chặn hoàn toàn dòng xuất khẩu năng lượng của Nga, thay vào đó khiến Nga phải chật vật xuất khẩu, chỉ có thể xuất được với mức giảm giá sâu, từ đó làm giảm doanh thu.
"Vấn đề không phải là giảm hay chặn xuất khẩu năng lượng của Nga sang châu Âu, mà là giảm nguồn doanh thu từ dầu mỏ, khí đốt. Cần phải phân định rạch ròi hai quan điểm này", Fatih Birol - Giám đốc điều hành Cơ quan năng lượng Quốc tế (IEA) đặt trụ sở tại Paris, Pháp, nhận định.
Theo ông Birol Nga hiện xuất khẩu khoảng 5 triệu thùng dầu thô/ngày và khoảng 3 triệu thùng/ngày với xăng, dầu diesel và các sản phẩm lọc dầu. Trung Quốc và Ấn Độ là hai nước có ngành lọc dầu phát triển rộng khắp và đặc biệt quan tâm đến dầu thô nhập khẩu.
Chuyển động địa chính trị vẫn giúp Nga có thể tiếp tục xuất khẩu năng lượng. Trung Quốc từ chối lên án Nga can dự quân sự ở Ukraine và Bắc Kinh cũng có lịch sử mua dầu thô từ Iran và Venezuela bất chấp trừng phạt của Mỹ và phương Tây. "Trung Quốc đã tìm ra được xử lý dầu thô nhập khẩu của Iran, Venezuela và họ cũng sẽ làm vậy với dầu thô của Nga", ông Michal Meidan, Giám đốc bộ phận nghiên cứu khí đốt và năng lượng Trung Quốc tại Viện Nghiên cứu Năng lượng Oxford, nói.
Italy kêu gọi EU từ bỏ nguyên tắc đồng thuận để đẩy nhanh quyết sách chống Nga Thủ tướng Italy Mario Draghi kêu gọi Liên minh châu Âu (EU) từ bỏ nguyên tắc đồng thuận trong các quyết định về chính sách đối ngoại. Thủ tướng Italy Mario Draghi. Ảnh: AP Thủ tướng Draghi đã yêu cầu EU từ bỏ đồng thuận trong quyết sách đối ngoại khi liên minh này đối diện với thách thức kinh tế và an...