Suzuki – từ khung cửi đến sản xuất xe
Hiện là ông lớn trong ngành ôtô xe máy thế giới nhưng ít ai biết rằng Suzuki xuất phát từ một công ty chuyên sản xuất khung cửi dệt vải.
Suzuki thành lập năm 1909 bởi Michio Suzuki với cái tên Loom Company (Công ty khung cửi Suzuki) chuyên cung cấp khung cửi cho thị trường Nhật Bản. Năm 1929 bắt đầu xuất khẩu những sản phẩm đầu tiên.
Tình hình phát triển kinh doanh tốt khiến Suzuki quyết định mở rộng mức độ bao phủ thị trường với một sản phẩm không hề liên quan đến khung cửi, đó là xe hơi cỡ nhỏ, từ năm 1939. Hai năm sau công ty đã sở hữu những mẫu xe đầu tiên sử dụng động cơ 4 xi-lanh làm mát bằng chất lỏng.
Suzuki Colleda 1955. Ảnh: webgarden.
Không dừng lại ở ôtô, đến năm 1952 Suzuki ra đời chiếc xe máy đầu tiên, với khung sườn như một chiếc xe đạp gắn thêm động cơ đốt trong. Hai năm sau mẫu xe mà Suzuki giới thiệu khiến làng môtô thế giới ấn tượng, công ty đổi tên thành Suzuki Motor Co., Ltd. Năm 1955, mẫu xe đầu tiên dưới thời công ty mới ra đời với tên gọi Colleda, sử dụng động cơ xi-lanh đơn, van bên sườn, công suất 4 mã lực, đi cùng hộp số 3 cấp và phuộc trước dạng telescopic.
Cũng trong năm này, Suzuki song song giới thiệu chiếc ôtô cỡ nhỏ khối lượng nhẹ lắp động cơ 360 phân khối. Tình hình kinh doanh ổn định ở lĩnh vực xe máy tạo cơ hội cho Suzuki tách riêng công ty khung cửi và môtô vào năm 1961.
Một năm sau, Suzuki ghi dấu chiến thắng đầu tiên trong làng đua xe thế giới với mẫu xe 50 phân khối tại Isle of Man TT. Hãng xe vươn mình ra thế giới năm 1963 với chi nhánh đầu tiên tại Los Angeles (Mỹ) với mục đích đạt doanh số tốt tại thị trường rộng lớn xứ cờ hoa.
Suốt những năm 1970, Suzuki sản xuất nhiều mẫu xe ấn tượng còn vang tiếng tới ngày nay như GT750 đời 1971 hay GS serie 1976. Ngoài ra, công ty bắt đầu xuất khẩu mẫu xe GS1000H trên toàn thế giới, một bước đi giúp hãng xe có được lượng khách hàng lớn hơn.
Video đang HOT
Thập kỷ 80 cũng là những năm bùng nổ của Suzuki với scooter Gemma 50 phân khối, GSX750S, LT125 ATV hay ôtô Swift. Bên cạnh đó, hãng thành lập văn phòng và trung tâm nghiên cứu và phát triển R&D (Reseach & Development) tại nhiều quốc gia Ấn Độ, Pháp, Tây Ban Nha và Colombia, đồng thời ký kết hợp tác với GM và Isuzu.
Hayabusa – niềm tự hào của Suzuki. Ảnh: Đức Quang.
Năm 1990, hãng đổi tên thành Suzuki Motor Corporation nhưng vẫn đồng thời sản xuất cả ôtô và môtô. Các mẫu Wagon R và Every – ra đời năm 1999. Năm 1994 chạm ngưỡng 10 triệu sản phẩm kể từ khi thành lập.
Năm 2000 hãng kỷ niệm thành lập 80 năm dưới thương hiệu Suzuki Loom. Trong năm này mẫu Grass Tracker 250 phân khối xuất xưởng. Hãng vẫn hợp tác với GM để sản xất xe hơi tại nhà máy của hãng xe khổng lồ Mỹ tại Argentina. Cùng trong năm đó, Suzuki giành chiến thắng tại World Grand Prix 500 Championship.
Trong khoảng thời gian đầu thế kỷ 21 đến này, Suzuki vẫn tiếp tục tung ra nhiều mẫu xe được ưa chuộng trên thế giới, đặc biejet ở phân khúc môtô thể thao với GSX-R serie hay đại diện nổi bật chim ưng Hayabusa.
Đức Huy
Theo VNE
Suzuki Viva 115 FI - trở lại Việt Nam đúng lúc
Mẫu xe 115 phân khối với hệ thống phun xăng điện tử khá tiện dụng khi đi trong phố, mức tiêu thụ nhiên liệu trung bình khoảng 70 km/lít.
Không còn dáng vẻ bầu bĩnh như trên những chiếc Viva thế hệ trước mà thay đổi hoàn toàn ngoại hình, góc cạnh và trẻ trung hơn, cùng khối động cơ 115 phân khối sử dụng hệ thống phun xăng điện tử với mục tiêu tiết kiệm nhiên liệu.
Mẫu xe Suzuki 115 phân khối với tên gọi Viva.
Viva là mẫu xe số mà Suzuki phát triển dành cho thị trường châu Á. Năm 1995, Suzuki Thái Lan phát triển các công nghệ mới được nghiên cứu bằng cách cho ra đời dòng sản phẩm xe số 4 thì với cái tên Suzuki Viva. Từ Thái Lan, xe xuất khẩu sang Việt Nam và nhiều nước châu Á khác. Sau đó, Viva được lắp ráp trong nước đến 2006 rồi ngừng sản xuất.
Trở lại thị trường đúng thời điểm phân khúc xe số bị lấn lướt bởi những chiếc xe tay ga, đặc biệt là ở các thành phố, Viva 115 FI có lợi thế là mẫu xe được sản xuất tới 95% linh kiện tại Indonesia cùng ngoại hình nhỏ gọn, thiết kế khí động học tốt và phun xăng điện tử.
Viva mới có kích thước chiều dài 1.910 mm, rộng 690 mm và cao 1.085 mm, chiều cao yên 760 mm, khoảng sáng gầm 145 mm. Kiểu dáng được thiết kế khí động học, cụm đèn pha phía đầu xe có kích thước lớn và sáng hơn, đèn xi-nhan tách rời đặt phía trước bửng (yếm) không còn kiểu đèn pha hình chữ nhật nằm ngang với nối liền với đèn xi-nhan được gắn hai bên như trên chiếc xe đời cũ.
Ở phía sau, đuôi xe cũng góc cạnh hơn, cụm đèn hậu mới được vuốt nhọn về phía sau, không còn kiểu đèn hậu hình oval đặc trưng của Viva đời đầu. Tay nắm phía sau ngắn và gọn gàng. Vị trí để chân dạng treo, ống với tấm ốp cách nhiệt có kích thước lớn.
Cụm đồng hồ đa sắc dễ quan sát thay cho kiểu đồng hồ cũ, đèn vị trí số cũng được bố trí nằm ngang phía bên dưới, với kích thước lớn hơn thay cho đèn báo số nằm bên phía phải trên mặt đồng hồ với kích thước nhỏ. Yên thiết kế ngồi thoải mái hơn, thay cho kiểu yên xe hơi dốc về phía trước. Bửng (yếm) xe cứng cáp, liền mạch với phần ốp thân xe, phía sau sơn màu tương phản bắt mắt, bửng được thu hẹp cho gọn gàng và đẹp hơn, nhưng cũng dễ bị văng nước lên chân hơn khi đi trời mưa.
Đồng hồ mới của Viva 115FI dễ quan sát khi đang lưu thông.
Âm thanh đặc trưng của động cơ Suzuki vẫn duy trì trên dòng xe Viva đời mới.Động cơ xi-lanh đơn, 4 thì, làm mát bằng gió có dung tích xi-lanh 113 phân khối, công suất 9,4 mã lực tại vòng tua máy 8.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 9,1 Nm tại vòng tua máy 6.000 vòng/phút. Ly hợp tự động và hộp số 4 cấp.
Sử dụng hệ thống phun xăng điện tử, Viva 115 FI không còn "bốc" như chiếc Viva thế hệ cũ sử dụng bình xăng con. Tuy nhiên, trên đường phố trong nội thành Sài Gòn, sau khi chuyển sang số 2, ở tốc độ trên 30 km/h, khẽ vặn ga, chiếc tăng tốc khá nhanh.
Thao tác chuyển số nhẹ nhàng, cùng tay ga mới khá nhạy. Trên tay lái, các nút bấm bố trí dễ thao tác, với nút khởi động và nút kèn (còi) màu vàng nổi bật trên bảng táp lô màu đen. Sau 3 ngày thử nghiệm trong nội thành, chở thêm một người phía sau, tốc độ trung bình 30-40 km/h, Viva tiêu thụ nhiên liệu trung bình khoảng 70 km/lít.
Bánh trước có kích thước 70/90R17, bánh sau cỡ 80/90R17 và hệ thống thắng đĩa trên bánh trước, thắng đùm (phanh tang trống) trên bánh sau. Cụm giảm xóc trước và sau vẫn là loại giảm xóc lò xo trụ, giảm chấn thủy lực. Tuy nhiên, giảm xóc sau không còn ốp nhựa bọc kín mà lò xo giảm chấn và piston thủy lực được lộ ra ngoài. Hộp sên (xích) nhằm bảo vệ và tăng tuổi thọ cho nhông và sên, phù hợp với điều kiện đường xá trong nước.
Một điểm tiện lợi mới của Viva 115 FI là khoang chứa đồ dưới yên với khả năng chứa gọn nón bảo hiểm dạng nửa đầu. Viva mới phiên bản niềng căm (vành nan hoa) có giá khoảng 20,99 triệu đồng.có lợi thế cạnh tranh trong phân khúc xe số trang bị phun xăng điện tử trên thị trường trong nước.
Đức Quang
Theo VNE
Lột xác Suzuki Viva, Honda Future đời đầu Chiếc Future đời đầu được phối màu nâu và bạc theo đúng giấy tờ xe, tạo phong cách ngầu nhưng vẫn sang trọng ,trong khi chiếc Suzuki Viva lại được phối màu xanh - trắng GP trẻ trung. Suzuki Viva và Honda Future đời đầu được xem là những mẫu xe máy kinh điển, từng có một thời hoàng kim, được rất nhiều...