Steyr AUG Súng trường tấn công bullpup thành công nhất
Steyr AUG của Áo là mẫu súng trường tấn công dạng bullpup được đánh giá thành công và có tầm ảnh hưởng rất lớn.
Steyr AUG (Armee Universal Gewehr: súng quân dụng phổ thông) là khẩu súng trường tấn công kiểu bullpup của Áo được thiết kế vào những năm 1960 bởi công ty Steyr Mannlicher GmbH & Co KG (trước đây là Steyr-Daimler-Puch). Quân đội Áo chính thức sử dụng AUG với tên gọi StG 77 vào năm 1977 để thay thế súng trường tự động StG 58 (hay còn được gọi với cái tên FN FAL) sử dụng cỡ đạn 7,62 x 51 mm.
Steyr AUG phiên bản tiêu chuẩn có độ dài 790 mm, nòng dài 508 mm với trọng lượng 3,6 kg. AUG có kết cấu chính bằng nhựa cao phân tử, chỉ được gia cố kim loại ở các vị trí cần thiết. AUG có thiết kế bullpup với vành bao quanh cò rất lớn, giúp xạ thủ có thể sử dụng dễ dàng kể cả khi đeo găng tay, ngoài ra vành bao này có chức năng tăng độ chắc chắn cho tay nắm chính. Một tay nắm phụ cũng được bố trí sẵn để thuận tiện cho xạ thủ trong việc cầm nắm.
AUG có thiết kế theo kiểu mô-đun tích hợp, cụ thể gồm 6 khối chính: Nòng, kính ngắm tích hợp, buồng đạn, cò, báng và hộp tiếp đạn. Nòng của AUG có 4 rãnh xoắn theo tỉ lệ 1:9 giúp ổn định đường đạn với các cỡ nòng có thể thay thế dễ dàng: tiêu chuẩn (508 mm), tiểu liên (350 mm), carbine (407 mm) và súng máy hạng nhẹ (621 mm).
Mặc định, AUG bản tiêu chuẩn sẽ được trang bị kính ngắm Swarovski có độ phóng đại 1,5x, đặt hơi lệch về phía phải bên cạnh thước ngắm cơ khí dự phòng mà không có hệ thống ray Picatinny (chỉ có ở các phiên bản cải tiến). Trong ảnh: AUG LMG với nòng dài 621 mm và chân chống chữ V.
Kính ngắm Swarovski 1,5x trang bị trên Steyr AUG nguyên bản.
Video đang HOT
AUG có cơ chế nạp đạn bằng khí nén (trích khí ngắn) với khả năng lựa chọn chế độ bắn. Thoi nạp đạn xoay của AUG có 7 khóa giúp đưa viên đạn từ hộp tiếp đạn vào buồng đạn. AUG không hề có nút chọn chế độ bắn mà phải thông qua cách kéo cò: kéo cò một nửa sẽ là chế độ bán tự động, còn kéo cò toàn bộ sẽ là chế độ tự động hoàn toàn. Trên mặt trái của báng súng có một nút khóa an toàn, nút này ở màu trắng nghĩa là đang ở chế độ an toàn, còn nếu chuyển sang màu đỏ thì súng đã sẵn sàng khai hỏa. Bằng một vài động tác, xạ thủ có thể dễ dàng thay đổi khe nhả đạn, giúp khẩu súng này thích hợp với các xạ thủ thuận cả tay trái lẫn tay phải.
AUG sử dụng loại đạn 5,56 x 45 mm NATO cho tầm bắn hiệu quả khoảng 400 m, tuy nhiên theo nhà sản xuất thì tầm bắn tối đa của AUG lên đến 2.800 m. Tốc độ bắn của AUG khoảng từ 680 – 750 viên/phút cùng sơ tốc đầu đạn đối với nòng dài 508 mm lến đến 970 m/s. Đây quả thật là một thông số khá tốt đối với khẩu súng trường tấn công sử dụng cỡ đạn 5,56 mm NATO. Tuy nhiên, AUG có một nhược điểm mà hầu hết các khẩu súng trường tấn công sử dụng đạn 5,56 mm đều gặp phải đó là đầu đạn nhẹ, bị mất động năng nhanh dẫn đến tầm sát thương giảm đi khá nhiều đối với mục tiêu ở xa.
AUG sử dụng hộp tiếp đạn bằn polymer cao phân tử có độ bền lớn, thiết kế bán trong suốt giúp xạ thủ quan sát được lượng đạn còn lại. Thông thường, AUG sử dụng hộp tiếp đạn tiêu chuẩn có sức chứa 30 viên, ngoài ra nhà sản xuất cũng chế tạo loại hộp tiếp đạn tròn có sức chứa 40 viên, mỗi khẩu AUG được bán ra sẽ đi kèm với 4 hộp tiếp đạn tiêu chuẩn. Trong ảnh: Thiết bị tiếp đạn vào hộp của AUG.
Steyr AUG có rất nhiều biến thể khác nhau từ nhà sản xuất chính tại nước Áo và các nước mua bản quyền gồm: Steyr AUG A1: Phiên bản tiêu chuẩn, được giới thiệu vào năm 1977. Steyr AUG A2: Phiên bản nâng cấp, được thiết kế lại cần nạp đạn và tương thích với nhiều loại kính ngắm nhờ hệ thống ray Picatiny.
Steyr AUG A3: Phiên bản AUG mới nhất, được giới thiệu vào năm 2005. Đây là khẩu AUG có thiết kế hoàn hảo nhất với 4 thanh ray Picatinny và nhiều cải tiến đáng kể khác. Đây là mẫu thường dùng trong một số lực lượng đặc nhiệm. Trong ảnh: Steyr AUG A3 với kính ngắm EOtech 552, đèn pin và tay nắm dọc.
Steyr AUG P: Phiên bản bán tự động của AUG với nòng ngắn, thích hợp cho thị trường dân sự cùng một số cơ quan thực thi pháp luật. Steyr AUG Para (AUG 9 mm, AUG SMG): Phiên bản tiểu liên của AUG được giới thiệu vào năm 1988, tương thích với loại đạn 9 x 19 mm Parabellum và hộp tiếp đạn Steyr MPi 69 của Steyr TMP. Đây là biến thể khác biệt nhất của AUG khi sử dụng cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn thay vì bằng khí nén như truyền thống. Trong ảnh: Steyr AUG Para với nòng ngắn và cơ chế nạp đạn bằng phản lực bắn.
Tuy không phải là súng trường tấn công bullpup đầu tiên trên thế giới, nhưng AUG đã cho thấy mình chính là khẩu súng có thiết kế bullpup thành công nhất về mặt thương mại. Hiên nay AUG được biên chế trong hàng loạt lực lượng quân đội và cảnh sát trên toàn thế giới mà phải kế đến đó là quân đội và lực lượng EKO Cobra của Áo, Anh, Mỹ, Malaysia và nhiều nước khác. Trong ảnh: 2 người lính Áo với AUG A2 trong cuộc tập trận Combined Resolve II.
Theo Tri Thức
So găng hai súng trường tấn công phổ dụng nhất hành tinh
Súng trường tấn công M16 và AK-47 cùng các phiên bản là những loại vũ khí cá nhân phổ dụng nhất thế giới. Chúng đã và đang chứng minh vị thế trong quân đội nhiều quốc gia.
AK-47 là một trong những súng trường thông dụng do chuyên gia vũ khí Mikhail Timofeevich Kalashnikov của Liên Xô thiết kế. Trong khi đó, M16 là sản phẩm của ngành công nghiệp chế tạo vũ khí Mỹ, đối trọng trực tiếp của Liên Xô trong nửa cuối thế kỷ XX.
Ngay sau khi chính thức góp mặt trong biên chế quân đội Liên Xô, AK-47 nhanh chóng được quân đội các quốc gia tin dùng. Tính tới thời điểm hiện tại, AK-47 và các phiên bản của nó là vũ khí tiêu chuẩn của quân đội hơn 50 quốc gia. Về phần mình, M16 cũng nhanh chóng chứng minh vai trò trong quân đội Mỹ và được các đồng minh của Washington ưa chuộng. Quân đội khoảng 80 quốc gia đang sử dụng M16 các phiên bản.
Súng AK được sản xuất từ năm 1949 tới nay với khoảng hơn 100 triệu khẩu xuất xưởng. Chúng thường dùng loại đạn kích thước 7,62x39 mm với tốc độ bắn khoảng 600 viên/phút. M16 ra đời muộn hơn AK 13 năm. Người ta chế tạo khoảng 8 triệu khẩu súng loại này. Nó bắn đạn kích thước 5,5645 mm với tốc độ bắn dao động từ 700 đến 900 viên/phút.
Một khẩu AK-47 nặng khoảng 4,78 kg khi mang băng đạn tiêu chuẩn. Khẩu dúng dài 880 mm với chiều dài nòng 415 mm. Nó có khả năng tiêu diệt mục tiêu ở khoảng cách hơn 1.000 m nhưng tầm bắn hiệu quả nhất chỉ đạt 350 m. M16 nặng 4 kg với băng đạn tiêu chuẩn. Nó dài 1.000 mm với kích thước nòng 508 mm. Tầm bắn hiệu của của M16 có thể lên tới 600 m.
Một trong những phiên bản nổi bật nhất của súng AK chính là AK-74. Chúng là mẫu súng được cải tiến trong những năm đầu thập niên 1970 nhằm thay thế súng AKM. AK-74 bắn loại đạn 5,4539 mm, nhỏ hơn so với đạn của AK-47. Trong khi đó, mẫu M16A2 ra đời sau những thất bại nặng nề của Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam. Những khẩu M16 mà quân đội Mỹ sử dụng tỏ ra thua kém hơn hẳn so với súng AK-47 ở Việt Nam.
Thành viên mới nhất trong gia đình súng AK là AK-12. Chúng ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại của quân đội Nga. Chúng có nhiều rãnh trên thân, cho phép binh sĩ dễ dàng lắp ráp các phụ kiện để hỗ trợ chiến đấu như kính ngắm, súng phóng lựu, tay cầm... Phiên bản mới nhất của súng M16 là M16A4. Nó được thiết kế để lắp thêm phụ kiện theo tiêu chuẩn của lực lượng lính thủy đánh bộ Mỹ.
AK-47 luôn tỏ ra vượt trội M16 về hiệu quả cao trong chiến đấu
Theo ZingNews
AKS-74U Súng trường tấn công "đội lốt" tiểu liên AKS-74U là biến thể thu nhỏ của khẩu AK-74, được sử dụng nhiều trong các lực lượng yêu cầu tính cơ động cao. Vào giữa năm 1973, Chính phủ Liên Xô đã mở một cuộc thi thiết kế súng với tên gọi nhằm tìm ra một khẩu carbine tự động hoàn toàn, chiếm ưu thế so với các mẫu carbine của Mỹ tại...