‘Song Lang’ – Nơi những đường thẳng song song cắt nhau!
“ Song Lang” giống như bức tranh vẽ những cặp đường thẳng song song. Và có lẽ chỉ ở vũ trụ được nhào nặn bởi đạo diễn Leon Quang Lê, những đường thẳng tách rời ấy bất ngờ cắt nhau một cách kì diệu.
Khó có thể coi Song Lang của nhà sản xuất Ngô Thanh Vân và đạo diễn Leon Quang Lê là một bộ phim đam mỹ hay cải lương đơn thuần, bởi tác phẩm lôi cuốn, chân thực và gần gũi nhiều hơn thế. Trong vỏn vẹn hơn 90 phút, Song Lang vừa giới thiệu, vừa kể chuyện, vừa không quên để lại hàng ngàn câu hỏi cho người xem, đồng thời truyền tải những triết lý qua từng mảnh đời, từng câu chuyện.
Bộ phim là câu trả lời rõ ràng nhất cho khán giả trước những nghi ngại khi phim cùng lúc khai thác cả đề tài cải lương lẫn đam mỹ. Để gói gọn ngần ấy nhiệm vụ trong thước phim dài hơn 90 phút, Song Lang giống như bức tranh vẽ những cặp đường thẳng song song. Và có lẽ chỉ ở vũ trụ được nhào nặn bởi đạo diễn Leon Quang Lê, những đường thẳng tách rời ấy bất ngờ cắt nhau một cách kì diệu.
Kép hát Linh Phụng và gã giang hồ Dũng “Thiên lôi”
Hai đường thẳng song song chủ đạo của Song Lang chắc chắn là hai con người với hai mảnh đời khác nhau: kép hát Linh Phụng ( Isaac) và Dũng “Thiên lôi” ( Liên Bỉnh Phát). Dũng “Thiên lôi” là gã giang hồ mang vẻ ngoài bụi bặm, lạnh lùng và có tính cách cục cằn. Anh đã quá quen với cảnh đâm thuê chém mướn, sống bằng tâm niệm: “Sai đâu đánh đó”. Thế nhưng, Dũng “Thiên lôi” lại là “con nhà nòi” của cải lương, dù từ lâu đã chọn từ bỏ môn nghệ thuật này.
Trong khi đó, kép hát Linh Phụng bước chân đến con đường cải lương bằng đam mê từ thuở nhỏ. Anh đã đánh đổi không ít và cháy hết mình vì ước mơ. Rời xa nhà đi theo đoàn hát, bất chấp sự phản đối của gia đình và dường như quên cả yêu, Linh Phụng cứ thế sống thật nhiều cuộc đời trên sân khấu. Song phải chăng cũng bởi vậy, anh thiếu đi cảm xúc thật trong lời hát của mình.
Hai con người tưởng chừng hoàn toàn trái ngược ấy lại gặp nhau trong một hoàn cảnh éo le, một người đi đòi nợ thuê, một người là con nợ “hộ”. Tính cách khác biệt giữa Linh Phụng và Dũng “Thiên lôi” không chỉ được xây dựng “cho có”, mà thể hiện ngay từ từng hành động, lời thoại. Một kẻ thực tế, một người mộng mơ; một kẻ vì ngang trái trong cuộc đời mà từ bỏ dòng máu nghệ sĩ, một người không bao giờ thỏa hiệp với những thứ dung tục, cạm bẫy. Song chỉ khi hai đường thẳng song song ấy cắt nhau, Linh Phụng mới nhận ra rằng, thì ra gã giang hồ kia cũng không bất cần đến vậy; và Dũng “Thiên lôi” tìm thấy được sự đồng cảm, thấu hiểu từ thỏi “nam châm trái dấu” với anh.
“Song Lang” của cải lương và câu chuyện song lang đam mỹ
Bộ phim của đạo diễn Leon Quang Lê đã gây xôn xao ngay từ khi công bố vì cùng lúc khai thác hai đề tài khó là cải lương và đam mỹ. Hai khía cạnh vốn chưa bao giờ được đặt cạnh nhau nay đã xuất hiện chung trong một câu chuyện. Sự độc đáo này còn được thể hiện từ tên phim, song lang là nhạc cụ của nghệ thuật cải lương, đồng thời cũng có nghĩa là hai người đàn ông.
Song tác phẩm đã kết hợp hai đề tài không dễ dàng ấy một cách hết sức tự nhiên, chân thực. Cải lương không hiện lên như một môn nghệ thuật hàn lâm, khó hiểu; mà trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, len lỏi vào từng ngõ ngách của Sài Gòn những năm 80. Vở kịch cải lương nổi tiếng của kép hát Linh Phụng về Mỵ Châu, Trọng Thủy là một cách tiệm cận thông minh vì tích thành Cổ Loa là câu chuyện mỗi người Việt đều nằm lòng.
Mối quan hệ hơi hướng đam mỹ của kép hát Linh Phụng và Dũng “Thiên lôi” cũng vậy: tự nhiên, chân thành và dễ được khán giả đón nhận. Những rung động giữa hai người đàn ông có cách thể hiện rất khác, đó là sự quan tâm nhỏ nhặt, vài cảm xúc khác thường của người nghệ sĩ chưa bao giờ yêu, và cũng là sự thấu hiểu đến gần như “tâm linh tương thông” của hai kẻ bên nhau vỏn vẹn một đêm.
Và đến khi đam mỹ và cải lương hòa vào làm một, Dũng “Thiên lôi” lỡ nhịp “song lang” ngay trước thềm Thiên Lý, kép hát Linh Phụng rơi nước mắt trong vở kịch đã diễn đi diễn lại cả trăm lần. Có thể nói rằng, khi hai đường thẳng mang tên cải lương và đam mỹ cắt nhau lần cuối, cũng là lúc khán giả thực sự thảng thốt, vỡ òa.
“Song Lang”: Khúc hát vừa chậm rãi, vừa nhanh đến “chẳng kịp trở tay”
Câu chuyện của kép hát Linh Phụng và gã giang hồ Dũng “Thiên lôi” được mở đầu bằng những tình tiết chậm rãi và có phần rời rạc. Cho đến nửa bộ phim, hai nhân vật chỉ chạm vào đời nhau qua cái nhìn hững hờ và vài câu hỏi không đầu cũng chẳng đuôi. Nhịp điệu đó hoàn toàn phù hợp với gam màu cũ kĩ, ám vàng của Sài Gòn những năm 80, cả thành phố đang trôi chậm rãi theo vài ba khúc bolero mở từ radio của một ngôi nhà nào đó trong ngõ hẻm.
Và có lẽ tiết tấu chậm rãi của bộ phim đã khiến người xem lơ là, để rồi thảng thốt không tin rằng câu chuyện đã thực sự kết thúc, hoặc chỉ còn lại trong những tưởng tượng của người hâm mộ. Khán giả xâu chuỗi và chợt nhận ra rằng, mỗi tình tiết, mỗi câu nói tưởng chừng như rời rạc và thừa thãi ở đầu phim đều đóng vai trò quan trọng trong diễn biến phim, cũng như thông điệp tác phẩm muốn truyền tải.
Thì ra không chỉ ở nhân vật và nội dung phim, mà ngay cả cấu trúc của bộ phim cũng đối lập không kém. Đó là một sự đối lập nhưng không hề mâu thuẫn, giúp câu chuyện giữa Linh Phụng và Dũng “Thiên lôi” cứ bám theo khán giả mãi cho đến lúc ra về. Không ngoa khi khẳng định rằng, Song Lang là một bộ phim đậm chất nghệ thuật, nhưng vẫn có đầy đủ yếu tố để chiếm được tình cảm từ người xem và thắng về mặt thương mại.
Theo Saostar
Phim "Song Lang": Khi Isaac không phải bản sao của Trương Quốc Vinh!
Song Lang là một tác phẩm điện ảnh đầy tâm đắc, một "viên ngọc quý" của điện ảnh chiếu rạp Việt Nam đương đại.
Song Lang hay còn gọi là Song Loan là một nhạc cụ truyền thống trong dàn nhạc cải lương. Mộc mạc thôi, Song Lang chỉ gồm hai miếng gỗ nhỏ, khi gõ vào nhau tạo tiếng đanh mà vang. Tuy nhỏ nhưng "có võ", Song Lang là món nhạc cụ quan trọng để giữ nhịp trong dàn nhạc.
Vừa hay, Song Lang nếu hiểu theo âm hán Việt lại có nghĩa là hai người đàn ông. Vậy là chỉ qua tựa phim được khéo chọn, khán giả đã nhận ra hai tứ mà đạo diễn Leon Lê muốn thể hiện trong phim: nghệ thuật cải lương và tình yêu đồng tính.
Năm 1993, phim Bá Vương Biệt Cơ của đạo diễn Trần Khải Ca giành giải Cành cọ vàng tại liên hoan phim Cannes. Mối tình đồng tính và những nốt thăng trầm của sân khấu kinh kịch truyền thống đã gây chấn động giới làm phim toàn thế giới, Bá Vương Biệt Cơ mãi mãi là tác phẩm kinh điển nhất của vị đại đạo diễn thế hệ thứ năm Trung Quốc.
Khi poster và trailer của Song Lang mới ra mắt, bộ phim không tránh khỏi bị so sánh với người tiến bối.
Nhưng một khi đã bước vào rạp để thưởng thức phim thì khán giả sẽ biết chắc Isaac không phải là bản sao của Trương Quốc Vinh, còn Song Lang cũng khác hẳn với Bá Vương Biệt Cơ.
Từ cái tựa phim đến từng chi tiết nhỏ, bộ phim diễm lệ một cách rất Việt Nam, khiến bất cứ ai từng sống qua thập niên 80 tại Sài Gòn đều phải nghẹn ngào trước những khung hình đầy hoài cổ.
Trailer phim Song Lang.
Cải lương một thời vàng son
Nếu Bá Vương Biệt Cơ khắc họa nghệ thuật kinh kịch trong thời kỳ bị Cách mạng Văn hóa nghiền nát thì Leon Lê lại chọn kể về cải lương trong thời kỳ vừa trở lại đỉnh cao. Đó là cách đạo diễn trẻ Leon Lê muốn nhớ về môn nghệ thuật dân tộc mà anh yêu mến chứ không dấm dứt tiếc nuối sự lụi tàn của nó.
Nam ca sĩ, diễn viên Issac vào vai Linh Phụng- một giọng ca cải lương được mến mộ đang tìm kiếm nhưng cảm xúc ái ố ở đời thực để thổi hồn cho vai diễn của mình. Isaac xuất thân là một ca sĩ thần tượng, vốn liếng diễn xuất của anh cũng khá ít ỏi và chưa nhận được nhiều lời khen ngợi.
Tuy nhiên khi vào vai Linh Phụng, khán giả không còn thấy một Isaac như họ từng biết khi thấy nét thư sinh gợi nhớ về dung nhan nghệ sĩ Kim Tử Long trên gương mặt anh và nghe anh ca cải lương "ngọt" đến bất ngờ.
Bộ phim nói về cải lương với nhiều lát cắt cuộc đời người nghệ sĩ: khi đứng dưới hào quang sân khấu, khi bị dè bỉu là kiếp "xướng ca vô loài", khi chật vật để gìn giữ nghệ thuật, và cả khi thất thế phải hát rong mưu sinh.
Tuy nhiên, đạo diễn Leon Lê cũng không muốn đánh đố khán giả bởi thực tế là với phần lớn người trẻ hiện đại, cải lương là một thứ đã lui về quá khứ. Nghệ thuật cải lương và vở diễn Mị Châu Trọng Thủy trong phim có thời lượng vừa phải, hiện lên rất đáng yêu và dễ tiếp cận.
Giữa những trường đoạn cải lương dài luôn được lồng ghép khéo léo cảnh nhắc tuồng hay đời sống sinh hoạt của nghệ sĩ bên cánh gà đầy hài hước để khán giả không thấy nhàm chán.
Cải lương và thập niên 80 là sự kết hợp thú vị bởi ở thời điểm này cải lương vẫn chưa đánh mất chất nghệ thuật của chính nó nhưng cũng không hoàn toàn là môn nghệ thuật 100% dân tộc.
Bản chất chữ cải lương đã có nghĩa là thay đổi cho tốt lên. Trong dàn nhạc cải lương có nhạc cụ cổ nhưng có cả nhạc cụ tân như guitar, kèn, trống, khiến nó khác biệt hẳn với hầu hết mọi nghệ thuật kịch hát trên thế giới, nhất là kinh kịch.
Thập niên 80 cũng là thời kỳ đặc biệt khi đất nước đang đứng trước thềm đổi mới. Phong vị thời cuộc trong Song Lang khiến không khí của bộ phim hết sức đặc biệt. Giữa một xã hội đang bất ổn, những số phận vô định vô tình gặp nhau và từ đó nảy nở ra một câu chuyện đẹp đẽ và bi thương nao lòng.
Khi trái tim của hai người đàn ông hòa nhịp rung cảm
Nhân vật chính của Song Lang không phải chàng nghệ sĩ Long Phụng mà lại là tay đòi nợ thuê Dũng "thiên lôi" (Liên Bỉnh Phát thủ vai). Dũng là tay sai đắc lực của dì Năm với phong cách làm việc chuyên nghiệp, không vướng bận tình riêng.
Tuy nhiên, qua cách Dũng đối đãi với những con nợ hay lũ trẻ trong xóm, đạo diễn Leon Lê từng bước bỏ nhỏ cho khán giả về một mặt khác của gã du côn lầm lì này. Dũng cũng có một phương diện khác- học thức, dịu dàng và đầy day dứt, trái ngược hẳn với con người bên ngoài của hắn.
Liên Bỉnh Phát là một gương mặt hoàn toàn mới của làng diễn xuất. Tuy nhiên với lợi thế gương mặt đậm chất điện ảnh và vẻ lãng tử hợp vai, anh đã thể hiện tương đối thành công Dũng "thiên lôi".
Mối tình đồng tính của Dũng và Linh Phụng không sỗ sàng mà ý nhị, đầy tinh tế. Rung cảm của họ có chăng chỉ được thể hiện qua ánh mắt trao nhau còn ngập ngừng.
Tình cảm giữa họ, trước hết là sự đồng cảm của hai con người cô đơn và lạc lõng trong chính thế giới của mình; tiếp đó là tình bằng hữu khi họ ngồi bên nhau chong đèn chơi máy điện tử, đọc sách, ca cải lương và kể chuyện đời mình; rồi cuối cùng mới là một tình yêu vừa chớm nở đã vụt tắt.
Bối cảnh của mối tình đó là một Sài Gòn xưa cũ được đạo diễn chăm chút ra trò trong từng chi tiết: trò chơi điện tử Contra, bộ phim Xóm vắng, tấm biển hiệu máy may Sinco, khách sạn Bát Đạt, bịch cà phê đá,...
Tất cả được sắp đặt cẩn thận trên khung hình tỉ lệ 3:2 chật hẹp, phủ lên một tông màu cũ kĩ, nhiều hạt nhiễu để tạo ra hiệu ứng hoài cổ.
Phần hình ảnh của phim thực sự là một điểm cộng lớn. Đạo diễn Leon Lê không chỉ tạo ra được những khung hình nghệ thuật nhất trên màn ảnh Việt trong thời gian gần đây mà còn tạo ra được một bầu không khí trầm buồn, "gây nghiện" cho phim.
Về mặt âm nhạc, bên cạnh các màn ca cải lương thì việc dùng nhạc trong phim cũng rất khéo léo và nhiều ý tứ.
Trong một cảnh gần cuối phim, khi Dũng ngồi trong quán cà phê với quyết định rẽ lối đời mình, ca khúc Que sera sera huyền thoại được nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt - Biết ra sao ngày sau vang lên chính là một điềm báo trước cho cái kết chua xót của phim:
"Biết ra sao ngày sau/ Đời luyến lưu vui cười, khổ đau/ Vì sắc duyên là sâu bể dâu/ Nào ai biết ngày sau/ Đời ta sẽ về đâu".
Song Lang là một tác phẩm điện ảnh đầy tâm đắc, một "viên ngọc quý" của điện ảnh chiếu rạp Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, bộ phim vẫn còn vài thiếu sót trong kịch bản khiến người xem tiếc nuối.
Đáng lẽ, đạo diễn Leon Lê có thể đi đến tận cùng đời sống của nhân vật và phát triển chiều sâu tâm lý thêm phức tạp thay vì một cốt truyện vẫn còn khá giản đơn.
Cái kết của phim tạo hiệu ứng tốt nhưng thú thực vẫn chưa đủ "ép phê" để khiến khán giả quặn lòng, nhất là khi nó diễn ra khá chóng vánh.
Dù sao đi chăng nữa, đây cũng mới là tác phẩm phim dài đầu tay của đạo diễn Leon Lê. Với chất lượng của nó, khán giả hoàn toàn có thể trông đợi vào những dự án tâm huyết sau này của vị đạo diễn Việt kiều.
Mong rằng, Song Lang sẽ thổi vào điện ảnh Việt một làn gió mới của những tác phẩm bứt phá lối mòn, đậm chất nghệ thuật trong nội dung và hình ảnh nhưng cũng không quá xa cách đời sống hiện thực.
Theo Trí Thức Trẻ
'Song Lang': Mối giao thoa tinh tế giữa quá khứ và hiện tại - Câu chuyện tình ý nhị giữa hai người đàn ông Tiếp nối chuỗi những câu chuyện mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của con người Việt Nam, sau "Cô Ba Sài Gòn", nhà sản xuất Ngô Thanh Vân lại mang đến màn ảnh rộng "Song Lang" - bộ phim do đạo diễn Leon Quang Lê cầm trịch. "Vén màn nhung" đưa môn nghệ thuật cải lương lên màn bạc Poster phim....