Sống chung với COVID-19 – Bài 5: Thay đổi để thích ứng
Hàng loạt sự kiện quan trọng, kể cả chính trị, kinh tế lẫn văn hóa diễn ra trực tuyến. Khái niệm làm việc, học tập, thậm chí khám chữa bệnh từ xa đã trở nên quen thuộc.
Giao dịch không dùng tiền mặt, hệ thống thanh toán không tiếp xúc hay thương mại điện tử “lên ngôi”. Ảnh: frost.com
Giao dịch không dùng tiền mặt, hệ thống thanh toán không tiếp xúc hay thương mại điện tử “lên ngôi”. Hành vi tiêu dùng bền vững, hợp lý, tiết kiệm, có kế hoạch, có chủ đích trở thành xu thế… Rõ ràng đã có những thay đổi đáng kể, từ tư duy, nhận thức tới tâm lý, thói quen, lối sống của con người, và đây là sự thay đổi phù hợp để đáp ứng yêu cầu sống chung với dịch COVID-19.
Có thể nói rằng đại dịch đã định hình lại cách thức làm việc, giao tiếp và sinh hoạt của con người. Nhờ sự phát triển của công nghệ, trong bối cảnh COVID-19 đã làm gián đoạn, đình trệ nhiều lĩnh vực của cuộc sống, thế giới đã nhanh chóng tìm ra những phương thức mới để hoạt động xã hội, nền kinh tế tiếp tục vận hành, mở cửa trở lại. “Trực tuyến” trở thành hình thức hoạt động chủ đạo, thương mại điện tử tăng chóng mặt, trong khi nền tảng số trở thành không gian giao tiếp chính.
Theo thống kê của hãng tư vấn McKinsey (có trụ sở chính tại New York, Mỹ), năm 2021, số lượng đơn giao hàng trực tuyến chỉ trong 8 tuần đã tăng bằng 10 năm. Số người làm việc từ xa qua hình thức trực tuyến đã tăng 20 lần chỉ trong 3 tháng. Hình thức khám bệnh trực tuyến tăng 10 lần chỉ trong 15 ngày. Số học sinh tham gia học trực tuyến tăng lên 250 triệu trong 2 tuần. Các hình thức giải trí trực tuyến tăng trưởng trong 5 tháng bằng 7 năm. Những số liệu này phản ánh thực tế rằng con người đang tìm cách thay đổi, thích ứng linh hoạt để có thể duy trì các hoạt động kinh tế-xã hội trong đại dịch.
Với sự hỗ trợ hiệu quả của công nghệ, giờ đây mỗi ngôi nhà đều có thể trở thành văn phòng làm việc hay lớp học. Phương thức làm việc tại nhiều ngành cũng thay đổi. Hồi tháng 3 vừa qua, Ford Motor, một trong những tập đoàn khổng lồ của Mỹ, đã quyết định cho phép khoảng 30.000 nhân viên trên toàn thế giới đang làm việc tại nhà có thể tiếp tục làm từ xa vô thời hạn, với thời gian linh hoạt được cấp quản lý chấp thuận. Xu hướng này đang ngày càng phổ biến trong bối cảnh dịch bệnh ở Mỹ vẫn chưa kết thúc.
Trước Ford, hàng loạt tập đoàn công nghệ như Salesforce, Facebook, Google … đã “tiên phong” áp dụng chính sách làm việc tại nhà vô thời hạn. Giới chuyên gia cho rằng về lâu dài, để thích ứng với “bình thường mới”, cách tiếp cận năng động và linh hoạt hơn đối với công việc sẽ được áp dụng.
Trong khi đó, theo Giáo sư Rosabeth Moss Kanter thuộc Trường Kinh doanh Harvard (Mỹ), những thay đổi liên quan tới đại dịch có thể là điểm ngoặt để thế giới rốt cuộc có thể áp dụng những đề xuất cân bằng giữa cuộc sống và việc làm chất lượng hơn. Ở một khía cạnh này COVID-19 đã thay đổi tư duy của con người, giúp họ có cơ hội nhận ra những gì mình trân quý nhất và không muốn thỏa hiệp, đồng thời xác định lại những ưu tiên của mình trong cuộc sống.
Thói quen tiêu dùng cũng thay đổi. Tiết kiệm trở thành một thói quen tiêu dùng mới. Khảo sát của Hãng McKinsey cho thấy người tiêu dùng giờ đây tập trung hơn vào hàng hóa thiết yếu thay vì xa xỉ phẩm. Thậm chí ngay cả những người khá giả cũng không còn quá hứng thú với việc tiêu pha quá mức và chú trọng nhiều hơn đến tính bền vững, hiệu quả và chất lượng sản phẩm, ưu tiên sản xuất sản xuất ngay tại địa phương. Đây được xem là xu thế tiêu dùng “xanh”. Nghiên cứu của hãng Adobe cho thấy xu thế trên đã được thể hiện trong mùa mua sắm trực tuyến lớn nhất tại Mỹ vừa qua gồm lễ Tạ ơn, Black Friday và Cyber Monday. Không riêng gì đại dịch COVID-19, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thói quen tiêu dùng luôn thay đổi trong những giai đoạn khủng hoảng. “Hành vi co giãn kinh tế” thắt chặt chi tiêu và tập trung vào những hàng hóa thiết yếu đã từng diễn ra với những đại dịch trong quá khứ, như thời kỳ bùng phát dịch SARS năm 2003.
Video đang HOT
Thực hiện các quy định hạn chế hay giãn cách để “Sống chung với đại dịch”, người tiêu dùng ngày càng quen thuộc với hình thức mua sắm qua mạng xã hội, trang web hay các ứng dụng bán hàng. Trường hợp của các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam chính là ví dụ điển hình cho thấy xu thế này. Theo khảo sát của Visa, công ty công nghệ thanh toán toàn cầu, năm 2021, mua sắm trực tuyến bùng nổ mạnh mẽ ở các nước Đông Nam Á, nơi người dân trước đây chủ yếu lựa chọn mô hình mua bán truyền thống. Hơn 44% người tiêu dùng Đông Nam Á đang thường xuyên lựa chọn mua sắm tại các nền tảng trực tuyến. Người tiêu dùng cũng ngày càng quen thuộc hơn với việc mua hàng trên điện thoại thông minh và máy tính. Gần 65% người tiêu dùng Thái Lan lần đầu tiên mua sắm trực tuyến thông qua ứng dụng hoặc trang web; 56% ở Indonesia và 52% ở Philippines cũng lần đầu tiên mua hàng trực tuyến. Cũng theo nghiên cứu của Visa, hiện có tới 77% người tiêu dùng Việt Nam đã biết đến hoạt động mua sắm trên mạng xã hội. Nhờ các ứng dụng mua sắm từ xa, tiêu dùng thế giới phục hồi trong năm 2021 và có xu hướng tiếp tục tăng.
ADVERTISING
X
Người dân đeo khẩu trang phòng dịch COVID-19 tại Bangkok, Thái Lan. Ảnh: AFP/TTXVN
Tất cả những thay đổi trên đều gắn liền với sự thay đổi về nhận thức và tư duy, đó cũng là yếu tố quyết định. Một trong những ví dụ điển hình về sự thay đổi tư duy, nhận thức dẫn tới thay đổi về hành vi khi con người sống chung với COVID-19 là vấn đề đeo khẩu trang. Ngay sau thông tin về sự xuất hiện của biến thể mới Omicron cuối tháng 11 vừa qua, Anh ngày 28/11 đã áp dụng trở lại quy định đeo khẩu trang trên các phương tiện giao thông công cộng và tại các cửa hàng; bang California (Mỹ) tái áp đặt quy định đeo khẩu trang tại những khu vực công cộng trong không gian kín trên toàn bang; Italy xem xét bắt buộc đeo khẩu trang ở ngoài trời… Đây là một sự thay đổi mạnh mẽ nếu nhớ lại thời điểm đầu năm ngoái, khi dịch COVID-19 mới bùng phát, nhiều người gốc Á ở Mỹ hay một số nước châu Âu từng là nạn nhân phải hứng chịu những ánh nhìn kỳ thị, thậm chí bị hành hung khi ra đường đeo khẩu trang. Giờ đây, sau 2 năm chống dịch, việc đeo khẩu trang nơi công cộng thậm chí trở thành “bình thường mới”.
Sự thay đổi thói quen và hành vi của con người cũng tác động tới mọi khía cạnh, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Đơn cử như ngành du lịch. Để thích ứng an toàn với COVID-10, “du lịch không chạm” hạn chế sự tiếp xúc để ngăn ngừa dịch bệnh đang trở thành xu hướng hiện nay và được dự báo sẽ phát triển mạnh trong tương lai không xa. Đây là mô hình trải nghiệm du lịch với các thiết bị và công nghệ tự động hóa, giúp hoạt động du lịch trở nên an toàn và tiện lợi hơn rất nhiều. Bên cạnh đó, mô hình “du lịch chậm” và du lịch gắn với sức khỏe cũng rất phát triển. Đó là hình thức du lịch tìm đến những vùng đất hoang sơ chưa được khám phá, nơi du khách có những những trải nghiệm chân thật và bền vững, không chỉ giúp du khách yên tĩnh để nghỉ ngơi mà còn mang đến sự an tâm do giảm nguy cơ lây lan dịch bệnh. Theo đánh giá của Global Wellness Institute (GWI), loại hình du lịch này có thể chạm mức doanh thu 919 tỷ USD vào năm 2022.
Có thể thấy rằng môi trường, thói quen, hoạt động và mối quan hệ của con người đều đang thay đổi để phù hợp với tình hình mới, khi nhiều nước đã chuyển sang “Sống chung an toàn với COVID-19. Thay đổi để thích ứng với những “bình thường mới” đang định hình đã trở thành xu thế chung, trong đó, việc mỗi người tự thích ứng, tự thích nghi là yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất, bởi đó chính là hành động chủ động để bảo vệ bản thân, cộng đồng và xã hội.
Sống chung với COVID-19 - Bài 4: 'Chỉ có cùng nhau'
"Chỉ có sát cánh cùng nhau, chúng ta mới có thể kết thúc đại dịch và mở ra một kỷ nguyên mới của niềm hy vọng" - đó là thông điệp được Liên hợp quốc đưa ra khi phát động chiến dịch "Only Together" (Chỉ có cùng nhau), kêu gọi tiếp cận vaccine bình đẳng trên toàn cầu.
Lô vaccine Covishield ngừa COVID-19 do Viện Huyết thanh Ấn Độ (SII) sản xuất được vận chuyển tới sân bay Mumbai để phân bổ cho các quốc gia theo cơ chế COVAX. Ảnh: AFP/TTXVN
Chính Tổng Giám đốc Tổ chức Y tế thế giới (WHO) Tedros Adhanom Ghebreyesus đã nhấn mạnh thực trạng đáng báo động trong vấn đề công bằng vaccine: "Mỗi ngày, số vaccine mũi tăng cường được tiêm trên toàn cầu cao gấp 6 lần số vaccine mũi một và mũi hai được tiêm ở những quốc gia có thu nhập thấp. Chúng ta cần phải chấm dứt tình trạng này".
Đầu năm 2021, COVAX, cơ chế được thành lập nhằm đảm bảo quyền tiếp cận vaccine ngừa COVID-19 công bằng trên toàn cầu, đặt mục tiêu phân phối 2 tỷ liều vaccine đến cuối năm, trong đó hơn một nửa được phân phối miễn phí cho 92 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình. Tuy nhiên, đến tháng 9, COVAX mới phân phối được hơn 280 triệu liều vaccine. Cơ chế này đã phải hạ mục tiêu tham vọng ban đầu xuống còn khoảng 1,4 tỷ liều, chỉ đủ để tiêm cho 20% dân số các nước này, thay vì 30% như dự kiến.
Tới thời điểm này, COVAX tăng lượng phân bổ lên hơn 589 triệu liều vaccine cho 144 quốc gia và vùng lãnh thổ, nhưng chỉ ngang lượng vaccine của riêng Mỹ phân bổ trong nước. Nói cách khác, hiện COVAX mới chỉ đi được 1/3 quãng đường và còn cách rất xa mục tiêu đề ra cho năm nay.
Chênh lệch trong phân bổ vaccine là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bao phủ vaccine không đồng đều. Trong khi những nước giàu đã đạt tỷ lệ tiêm chủng khá cao với 68% dân số tiêm đủ liều và đã tiến hành tiêm mũi tăng cường, thì tỷ lệ tiêm chủng ở nhiều nơi vẫn còn rất thấp, đặc biệt là những nước phụ thuộc nguồn cung của COVAX.
Chỉ có 7,3% dân số ở các nước thu nhập thấp đã được tiêm ít nhất một mũi vaccine. Ở "Lục địa Đen", nơi có 7,5% dân số đã tiêm đủ liều, tỷ lệ tiêm chủng trung bình là 17,9 mũi tiêm trên 100 dân, trong khi con số này ở châu Âu và Mỹ lần lượt là 130 mũi và 141 mũi. Bên cạnh đó, hiện có 267,6 triệu người ở 65 quốc gia đã được tiêm mũi bổ sung, trong khi tổng số mũi tiêm triển khai ở các nước thu nhập thấp là 56,8 triệu mũi và toàn châu Phi là 247,4 triệu mũi. Đây là thực trạng mà Tổng Giám đốc WHO gọi là "sự bất bình đẳng gây sốc".
Nhân viên y tế tiêm vaccine ngừa COVID-19 cho người dân tại Mohammedia, Maroc. Ảnh: THX/TTXVN
Vấn đề kinh phí hiện là rào cản lớn nhất. COVAX hoạt động dựa trên nguồn vốn tài trợ của các quốc gia giàu và hiện vẫn thiếu 2,6 tỷ USD để đạt được mục tiêu cung cấp đủ vaccine cho 20% dân số ở mỗi quốc gia thu nhập thấp trước cuối năm 2021.
Thách thức lớn thứ hai là nguồn cung không ổn định. COVAX không thể đặt mua đủ vaccine khi các nước giàu đã nhanh tay ký thỏa thuận trước với các nhà sản xuất, làm đình trệ quá trình triển khai những hợp đồng sản xuất lượng lớn dự kiến trong năm 2021 theo cơ chế COVAX. Ngoài ra, việc Ấn Độ quyết định ngừng xuất khẩu vaccine từ nhà máy của Viện Huyết thanh (SII) - nhà cung cấp chính cho COVAX, cũng dẫn tới tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng nguồn cung. SII đến nay mới bàn giao được khoảng 30 triệu liều trong thỏa thuận cung cấp 550 triệu liều vaccine ngừa COVID-19 cho COVAX.
Một vấn đề nổi cộm là việc các nước giàu tích trữ vaccine dẫn tới nghịch lý: trong khi ở một số nước phát triển, hàng triệu liều vaccine hết hạn sử dụng bị vứt bỏ thì ở nhiều nước nghèo, người dân chờ đợi hàng tháng vẫn chưa có vaccine để tiêm. Cựu Thủ tướng Anh Gordon Brown đã dùng cụm từ "thảm họa lãng phí vaccine" để mô tả tình trạng hơn 100 triệu liều vaccine trong kho dự trữ của các nước giàu có nguy cơ bị vứt bỏ trong 3 tháng cuối năm 2021 do hết hạn, giữa lúc hàng triệu người mắc COVID-19 ở những quốc gia nghèo nhất thế giới phải trả giá bằng mạng sống vì không có vaccine tiêm phòng.
Theo thống kê, các nước giàu chiếm 16% dân số thế giới đã mua tới 89% nguồn cung cấp vaccine trên toàn cầu, có quốc gia thậm chí đặt mua số lượng nhiều hơn số dân của mình. Canada mua đủ lượng vaccine cho 453,1% dân số, Anh mua 270,3%, Australia mua 225,1%, Mỹ mua 182,8%. Phân tích số liệu do hãng Airfinity thực hiện cho thấy các nước giàu có thể sở hữu tới 1,2 tỷ liều vaccine không cần dùng đến, ngay cả khi tiêm mũi tăng cường cho người dân. Các quốc gia ở Bắc bán cầu cũng không giữ lời hứa tài trợ vaccine cho các nước ở Nam bán cầu. Mỹ chỉ viện trợ 25% so với những gì đã cam kết, trong khi Liên minh châu Âu (EU), Anh và Canada gửi lần lượt 19%, 11% và 5% so với số lượng đã cam kết.
Việc phân phối vaccine không công bằng, theo các chuyên gia, sẽ khiến đại dịch COVID-19 càng kéo dài, tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu và gây chia rẽ xã hội. Hãng Economist Intelligence Unit (EIU) dự báo tình hình dịch bệnh sẽ còn diễn biến phức tạp do các biến thể mới lây lan mạnh hơn khiến thế giới khó đạt được miễn dịch cộng đồng và việc tiêm vaccine cũng "đạt hiệu quả khiêm tốn hơn" trong việc giảm số ca nhập viện, trở nặng và tử vong.
Bên cạnh đó, nền kinh tế thế giới có thể thiệt hại hàng nghìn tỷ USD do sự chậm trễ và thiếu đồng đều trong triển khai tiêm vaccine phòng COVID-19, trong đó các nền kinh tế đang phát triển chịu thiệt hại nặng nề nhất. EIU dự báo các quốc gia không đạt được mục tiêu tiêm cho 60% dân số vào giữa năm 2022 sẽ thiệt hại 2.300 tỷ USD trong giai đoạn 2022-2025. Giám đốc dự báo toàn cầu của EIU, bà Agathe Demarais, cho rằng: "Các nền kinh tế mới nổi gánh khoảng 2/3 mức thiệt hại này và càng khiến họ chậm bắt kịp với các nền kinh tế phát triển hơn".
Báo cáo của EIU cũng chỉ ra rằng châu Á là châu lục chịu ảnh hưởng nặng nề nhất với thiệt hại ước tính lên tới 1.700 tỷ USD, tương đương 1,3% GDP dự báo của khu vực. Các quốc gia châu Phi cận Sahara được dự báo thiệt hại khoảng 3% GDP do chậm trễ tiêm vaccine - mức thiệt hại về phần trăm cao nhất. Chuyên gia Agathe Demarais cũng cho rằng khoảng cách về phân phối vaccine cũng có thể khiến bất ổn xã hội gia tăng trong nhiều tháng hoặc nhiều năm tới, trong khi sự chênh lệch giữa nước giàu và nước nghèo càng trở nên rõ ràng.
Sự lây lan của biến thể mới Omicron vào tháng cuối năm càng cho thấy việc thu hẹp bất bình đẳng về phân phối vaccine là hành động cấp bách để ngăn chặn các thảm kịch xảy ra. LHQ và WHO đã kêu gọi thúc đẩy phân phối công bằng, các nước giàu hơn chia sẻ lượng vaccine còn dư để hỗ trợ công tác tiêm chủng ở các nước thu nhập thấp. WHO cũng đang cân nhắc mở rộng danh sách "ứng cử viên tiềm tàng" cho cơ chế COVAX, trong đó, các vaccine của Sinopharm và CoronaVac (Trung Quốc) đang trong giai đoạn đánh giá cuối cùng.
Vaccine Covishield ngừa COVID-19 - phiên bản vaccine của hãng AstraZeneca (Anh-Thụy Điển) do Viện Huyết thanh Ấn Độ (SII) sản xuất. Ảnh: AFP/TTXVN
Chia sẻ nỗ lực với WHO, Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đã cam kết tài trợ 2 tỷ USD để cung cấp vaccine tới khoảng 40 nước đang phát triển. Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) đã hỗ trợ 7,5 tỷ USD cho các chương trình của WHO.
Các nước phương Tây cũng đưa ra cam kết mạnh mẽ hơn. Mỹ đẩy nhanh tốc độ hỗ trợ vaccine, nâng tổng số liều cam kết lên hơn 1,1 tỷ liều. Pháp thông báo cung cấp 120 triệu liều vaccine ngừa COVID-19, tăng gấp đôi so với dự định trước đó. EU dự kiến hỗ trợ 500 triệu liều trong dài hạn. Mới đây, Thụy Sĩ đã đồng ý đổi thứ tự nhận vaccine ngừa COVID-19 với COVAX, trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới nhường cho COVAX nhận trước vaccine.
Việt Nam nằm trong số không nhiều nước đang phát triển có đóng góp tự nguyện cho COVAX, qua đó thể hiện mạnh mẽ tình đoàn kết quốc tế và nỗ lực trách nhiệm của Việt Nam. Khi thăm trụ sở WHO tại Geneva (Thụy Sĩ) và làm việc với Tổng Giám đốc WHO Ghebreyesus nhân chuyến thăm Thụy Sĩ vào cuối tháng 11, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ ủng hộ những nỗ lực của chương trình COVAX và các tổ chức vận hành COVAX trong thúc đẩy tiếp cận công bằng, bình đẳng và kịp thời vaccine ngừa COVID-19 trên toàn cầu. Chủ tịch nước tuyên bố Việt Nam sẽ đóng góp tự nguyện thêm 500.000 USD cho COVAX, nâng tổng mức đóng góp tự nguyện của Việt Nam cho COVAX lên 1 triệu USD.
Đoàn kết toàn cầu vì công bằng vaccine COVID-19, để "cả thế giới được tiêm vaccine" là mục tiêu được LHQ nhấn mạnh trong chiến dịch "Only Together". Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres thì khẳng định "Không nước nào có thể vượt qua cuộc khủng hoảng COVID-19 một cách đơn độc". Chỉ có cùng nhau hành động phối hợp trên quy mô toàn cầu nhằm bảo đảm tất cả mọi người đều được tiếp cận vaccine, thế giới mới có thể quay trở lại thực hiện những điều "mà chúng ta yêu thích được làm cùng nhau, đó là những bữa ăn, những cái ôm, cùng đi tới trường và tới nơi làm việc" trong cuộc sống "bình thường mới".
Sống chung với COVID-19 - Bài 2: Bước ngoặt hướng tới 'bình thường mới' "Chúng ta phải học cách sống chung với dịch... Tôi muốn nhấn mạnh rằng đại dịch còn lâu mới kết thúc." Tuyên bố được Thủ tướng Anh Boris Johnson đưa ra trước khi nước này dỡ bỏ hầu hết các hạn chế chống dịch vào ngày 19/7 có thể coi là dấu mốc mở đầu cho "bước ngoặt" chiến lược trong cuộc chiến...