Sớm gỡ rào cản cho điện gió ngoài khơi
Các chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng, Việt Nam có tiềm năng lớn với điện gió ngoài khơi, tuy nhiên vẫn còn nhiều rào cản cần tháo gỡ cho loại hình năng lượng này phát triển.
Trụ tua-bin trên biển của Nhà máy điện gió số 5 (xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre). Ảnh: Công Trí/TTXVN
Chia sẻ tại hội thảo “Ảnh hưởng của xu hướng giá thành điện gió ngoài khơi thế giới đến Việt Nam” do Đại sứ quán Đan Mạch và Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo – Bộ Công Thương tổ chức vào chiều 2/6, các chuyên gia và doanh nghiệp cho rằng, Việt Nam có tiềm năng lớn với điện gió ngoài khơi, có thể lên tới 160 GW và hiện trong dự thảo Quy hoạch Điện VIII cũng đặt ra mục tiêu đến năm 2030 phát triển 7 GW điện gió ngoài khơi. Tuy vậy, các ý kiến nhận định, vẫn còn nhiều rào cản cần tháo gỡ cho loại hình năng lượng này phát triển.
Trao đổi tại hội thảo, ông Nguyễn Mạnh Cường, đại diện Viện Năng lượng – Bộ Công Thương cho hay, tiềm năng điện gió ngoài khơi ở Việt Nam là rất tốt đặc biệt là các tỉnh khu vực phía Nam. Song, tình trạng thiếu điện ở miền Bắc được dự báo và có thể phải truyền tải nhiều điện hơn ra khu vực phía Bắc. Vậy, vấn đề đặt ra là có thể tăng truyền tải điện ra Bắc hay cân nhắc phát triển điện gió ngoài khơi ở miền Bắc.
Trong dự thảo Quy hoạch Điện VIII, thực hiện cam kết phát thải ròng = 0 vào năm 2050, các nguồn nhiệt điện than đã dừng, phát triển điện khí LNG cũng bị hạn chế. Như vậy, năng lượng tái tạo, trong đó có điện gió ngoài khơi sẽ có vai trò quan trọng.
Theo tờ trình Quy hoạch Điện VIII đặt ra mục tiêu 7.000 MW đến năm 2030 (phía Bắc 4.000 MW và Nam Trung bộ, Nam bộ 3.000 MW, do giới hạn truyền tải điện từ khu vực miền Trung, Nam ra Bắc hạn chế). Hiện ở phía Bắc, các tỉnh có biển đăng ký khoảng 51.000 MW điện gió ngoài khơi, nhưng theo tờ trình chỉ có 4.000 MW nên sẽ phải lựa chọn dự án khả thi, đấu nối điện.
Theo phân tích của ông Nguyễn Mạnh Cường, các vấn đề tồn tại khi đấu nối hiện nay là: chưa có quy hoạch hệ thống tuyến cáp ngầm dưới biển kết nối các dự án điện gió ngoài khơi để giảm thiểu tác động đến hệ sinh thái, giao thông vận tải biển và sinh kế ngư dân.
Video đang HOT
Do vậy, cần nghiên cứu sâu hơn, đưa các tuyến cáp như “hành lang cao tốc” dưới biển. Ngoài ra, phạm vi nghiên cứu đầu tư, đấu nối giữa nhà đầu tư với Tập đoàn Điện lực Việt Nam cần phải đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên và các ràng buộc đầu tư lưới điện cũng như dự án điện gió ngoài khơi để đồng bộ. Cùng đó, thủ tục đầu tư và cấp phép dự án hiện vẫn còn nhiều phức tạp vì sự chồng chéo về quản lý giữa nhiều bộ, ngành như: Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng, các tỉnh có dự án… dẫn tới nhiều rủi ro trong quá trình thực hiện đầu tư.
Theo chia sẻ của ông Stuart Livesay, Giám đốc quốc gia Việt Nam, Tổng giám đốc Dự án điện gió La Gàn, Việt Nam đặt mục tiêu 7 GW đến năm 2030, nhưng vấn đề về triển khai, lộ trình, hợp đồng mua bán điện nếu không có sự đảm bảo nhất định thì sẽ khó để thực hiện được
Cũng theo đại diện dự án La Gàn, khi đầu tư dự án điện gió ngoài khơi, các khâu từ lựa chọn dự án, khảo sát, đầu tư xây dựng đều rất phức tạp và cần nguồn vốn lớn. Tất cả các công việc đòi hỏi doanh nghiệp phải thực hiện trước năm 2030 và phải làm tuần tự; cùng đó là các nghiên cứu địa kỹ thuật, tác động môi trường, sinh vật biển… phục vụ cho xây dựng. Do vậy, để tránh các rủi ro tiềm ẩn, Việt Nam cần sớm có các quy hoạch liên quan, hướng dẫn chi tiết để doanh nghiệp định hướng, triển khai.
Ông Phạm Nguyên Hùng, Phó Cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo – Bộ Công Thương cho biết, Luật Điện lực đang được sửa đổi là đột phá của Chính phủ, thực hiện xã hội hóa cho phép tư nhân tham gia đầu tư lưới điện truyền tải. Ở thế giới, việc cho phép tư nhân tham gia đầu tư lưới điện truyền tải rất ít và đây cũng là quyết tâm của Đảng và Chính phủ.
Tuy nhiên, sau khi có Luật sửa đổi thì việc ban hành Nghị định, hướng dẫn cũng rất quan trọng. Bộ đã họp với các đơn vị, góp ý kiến cho các văn bản hướng dẫn. Hiện nay, một số nhà đầu tư tư nhân đã tham gia đầu tư lưới như Trung Nam, Xuân Thiện,… nhưng trục xương sống truyền tải liên miền, liên vùng vẫn phải do nhà nước. Còn lại các nhánh đấu nối từ các trung tâm nguồn điện hoặc vị trí không ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng thì có thể xem xét, hướng dẫn tư nhân đầu tư,
Cũng theo ông Phạm Nguyên Hùng, để thực hiện dự án điện gió ngoài khơi mất từ 7-8 năm, như vậy thời điểm này phải bắt tay vào triển khai mới có thể đạt được mốc quy hoạch đến năm 2030. Các công việc cần làm là Quy hoạch Điện VIII sớm được phê duyệt, hiện Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo quy hoạch. Sau đó đến kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII, Bộ Công Thương cũng phải chuẩn bị. Nếu kế hoạch triển khai chậm sẽ làm giảm hiệu quả của quy hoạch điện. Về khung pháp lý, điện gió ngoài khơi có chu trình đầu tư khác biệt nhiều so với điện gió trên bờ, phạm vi quản lý biển dưới 6 hải lý thuộc cấp tỉnh, trên 6 hải lý phải cấp cao hơn… Đây cũng là vấn đề cần “hóa giải”.
Tiềm năng phát triển điện gió ngoài khơi
Theo dự thảo Quy hoạch Điện VIII mới đây của Bộ Công Thương trình Chính phủ, ngành điện đặt ra lộ trình cắt giảm điện than mạnh mẽ để chuyển đổi, thay thế bằng các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là điện gió và điện khí.
Nhiều chuyên gia đánh giá, đây sẽ là cơ hội cho ngành điện gió ngoài khơi phát triển.
Nhà máy Điện gió Bạc Liêu ở xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu. Ảnh minh họa: Duy Khương/TTXVN
Tại hội nghị trực tuyến với các địa phương về hoàn thiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) mới đây, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành đánh giá, cơ bản các phương án tính toán trong dự thảo đã tối ưu. Tổng quy mô công suất nguồn điện phát triển đến năm 2030 dự kiến khoảng 146.000 MW, giảm khoảng 35.000 MW so với dự thảo trình ngày 26/3/2021. Công suất cực đại đến năm 2030 vào khoảng 93.000 MW.
Tại bản dự thảo lần này, đến năm 2045, toàn hệ thống chỉ còn 9,6% công suất nguồn điện than, trong khi điện gió, điện mặt trời chiếm 50,7%, đảm bảo các cam kết về chuyển đổi năng lượng, bảo vệ môi trường.
Nhiều đánh giá của tổ chức quốc tế và chuyên gia cho rằng, Việt Nam có lợi thế bờ biển cùng tiềm năng về năng lượng điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Nhờ có nguồn gió mạnh, các dự án điện gió ngoài khơi của Việt Nam có thể đạt hệ số công suất hơn 50%, tương đương với thủy điện.
Ông Mark Hutchinson, Chủ tịch nhóm công tác khu vực Đông Nam Á của GWEC khẳng định: "Việt Nam hoàn toàn thể hướng tới con số 10 GW điện gió ngoài khơi ở mục tiêu đến năm 2030. Việc triển khai được nguồn năng lượng này sẽ giúp Việt Nam "an toàn" hơn trước những rủi ro của thị trường nguyên liệu thế giới vốn được dự báo còn nhiều biến động trong thời gian tới. Trong khi điện gió trên bờ và điện mặt trời đang chưa giải quyết được vấn đề lưu trữ, lưới truyền tải còn hạn chế...".
Theo ông Trần Viết Ngãi, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, điện gió trên bờ và điện mặt trời thường gặp những hạn chế từ địa hình, địa thế khi lắp đặt và vận hành, ví dụ như hướng, nền đá cứng, lối vào... có thể ảnh hưởng đến vị trí thi công dự án, làm gia tăng rủi ro ở các khía cạnh khác như sự ổn định nền đất và xung đột với cộng đồng quanh khu vực dự án. Do đó, trong tương lai, điện gió ngoài khơi sẽ là loại hình năng lượng sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ.
Đánh giá của Hiệp hội Năng lượng sạch cũng cho hay, với các dự án năng lượng tái tạo, việc kết nối lưới điện rất quan trọng và với các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn, cơ sở hạ tầng phù hợp là rất cần thiết. Nhiều dự án điện gió trên bờ và điện mặt trời thường có hệ số công suất hàng năm thấp. Các dự án này, với quy mô vừa và nhỏ, thường xuyên được đấu nối vào lưới điện quốc gia ở cấp điện áp thấp, trong khi điện gió ngoài khơi có thể cung cấp hệ số công suất hàng năm lớn hơn nhiều và có thể kết nối ở điện áp cao hơn 220 kV, 500 kV.
Ông Mai Duy Thiện, Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng sạch cho rằng, so với gió trên bờ, chất lượng và độ ổn định của gió ngoài khơi thường tốt hơn, đặc biệt là ở khu vực Bình Thuận và Ninh Thuận - nơi mà nguồn tài nguyên gió ngoài khơi được đánh giá là có chất lượng tốt hơn so với gió trên bờ. Các tuabin gió có kích thước lớn hơn giúp dự án điện gió ngoài khơi đạt được hệ số công suất hàng năm cao vượt trội.
Đơn cử như Dự án điện gió ngoài khơi La Gàn, Thanglong Wind tại tỉnh Bình Thuận, dự kiến sẽ có tổng công suất hàng nghìn MW sau khi đi vào vận hành hoàn chỉnh. Những dự án này tương đương việc cung cấp điện cho hàng chục triệu hộ gia đình Việt hàng năm. Việc đấu nối các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn như vậy có nhiều lợi thế hơn so với các nguồn năng lượng tái tạo khác, do tránh được nhiều hạn chế đáng kể mà các dự án năng lượng tái tạo trên bờ đang gặp phải, chẳng hạn như yêu cầu diện tích đất đai rất lớn, tác động cảnh quan và tầm mắt, tiếng ồn/độ rung trong quá trình xây dựng và vận hành...
Ông Stuart Livesey, Giám đốc Quốc gia của COP tại Việt Nam, Tổng giám đốc dự án điện gió ngoài khơi La Gàn cho hay, các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn có thể tạo ra một lượng điện năng đáng kể với tỷ lệ khả dụng cao hơn so với các dạng năng lượng tái tạo trên bờ khác. Việc tăng cường sản xuất năng lượng từ gió ngoài khơi và hướng tới kích thích phát triển kinh tế cho địa phương và đất nước, cần được hỗ trợ bằng việc nâng cấp lưới điện và cần được cân nhắc kỹ lưỡng từ sớm. Việt Nam cần có kế hoạch chiến lược cụ thể và mức tài trợ thích hợp để cho phép hỗ trợ ngành năng lượng tái tạo nhiều hơn.
Hiện nay, nhiều ngân hàng và tổ chức tài chính toàn cầu đã ưu tiên cấp vốn cho các dự án năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi. Do đó, đối với các nhà phát triển giàu kinh nghiệm và có năng lực, việc huy động vốn sẽ thuận lợi hơn trong xu thế chung của toàn cầu nhằm mục tiêu giảm khí thải. Các quốc gia mà ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi đã phát triển cho thấy mức độ đầu tư cao vào công nghệ của ngành này.
Trên toàn cầu, ngày càng có nhiều cam kết nhằm giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch và giảm lượng khí thải carbon bằng cách thúc đẩy năng lượng tái tạo. Các chuyên gia cho rằng, cam kết mạnh mẽ của Việt Nam tại COP 26 về việc đạt phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050 là một mục tiêu đầy tham vọng nhưng có thể đạt được nếu có các khuôn khổ pháp lý và chính sách hỗ trợ phù hợp.
Dù được nhiều kỳ vọng phát triển, song hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có quy định, hướng dẫn chi tiết về việc cho phép khối tư nhân đầu tư lưới truyền tải điện. Các nhà phát triển dự án cho rằng, những quy định rõ ràng hơn trong vấn đề này sẽ giúp họ đưa ra quyết định đầu tư toàn bộ hoặc một phần vào xây dựng đường dây/nâng cấp lưới điện với sự hợp tác chặt chẽ với đơn vị vận hành để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo các dự án có thể được thực hiện đúng thời hạn.
Sự chậm trễ trong xây dựng và kết nối lưới điện, tính bất định trong việc bắt buộc cắt giảm công suất phát do cơ sở hạ tầng và quản lý nhu cầu chưa đủ đáp ứng có thể trở thành rủi ro lớn đối với nhà phát triển, khiến họ trì hoãn cam kết cho đến khi có thêm sự chắc chắn trong quá trình thực hiện.
Theo các chuyên gia năng lượng, thông thường, điểm đấu nối của một dự án điện gió ngoài khơi được đặt càng gần với điểm kết nối lưới điện trên bờ càng tốt. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng thực hiện được và chiều dài cáp trên bờ tính từ nơi tiếp xúc đất liền cho đến trạm biến áp trên bờ có thể khá lớn.
Để khắc phục vấn đề này, các nhà phát triển có kinh nghiệm có thể xem xét đầu tư xây dựng, nâng cấp một phần của hệ thống truyền tải điện cao thế. Điều này có thể đảm bảo việc nâng cấp kịp thời và hiệu quả hơn để nâng cao khả năng truyền tải của lưới điện khu vực, củng cố hệ thống, giảm thiểu rủi ro và tránh việc cắt giảm công suất điện...
Vốn cho ngành điện - Bài 2: Vốn ở đâu? Theo Báo cáo mới nhất về dự thảo Quy hoạch điện VIII (Tờ trình số 1156/TTr-BCT ngày 09/3/2022 của Bộ Công Thương), vốn đầu tư giai đoạn 2021-2030 theo hai phương án là từ 127,45 - 133,5 tỷ USD. Như vậy, vốn đầu tư cho phát triển ngành điện trong giai đoạn 2021-2030 bình quân khoảng 13 tỷ USD/năm. Đó là chưa nói...