‘Sói ma’ Nhật bản có thể vẫn còn tồn tại: Bằng chứng hình ảnh và âm thanh thắp sáng hy vọng cho loài thú săn mồi đỉnh cao đã tuyệt chủng
Sâu trong những ngọn núi sương mù ở miền trung Nhật Bản, một bí ẩn kéo dài hàng thế kỷ vẫn còn tồn tại. Bất chấp mọi nghịch cảnh, loài sói Nhật Bản, được tuyên bố chính thức tuyệt chủng vào năm 1905, vẫn có thể lang thang trong vùng hoang dã.
Hiroshi Yagi đã dành hơn 50 năm để tìm kiếm loài sói Nhật Bản ( Canis lupus hodophilax), còn được gọi là sói Honshū hay sói ma. Cuộc hành trình của ông bắt đầu vào năm 1969 khi còn là một nhà leo núi trẻ tuổi, ông đã nghe thấy một âm thanh khó quên khi đang ở trong một nhà nghỉ trên Núi Naebasan. “Đó là lúc tôi nghe thấy tiếng hú”, Yagi nói. “Tôi biết rằng loài sói Nhật Bản đã bị tuyên bố tuyệt chủng kể từ thời Meji – kết thúc vào năm 1912, nhưng tôi nghĩ, một loài động vật không tồn tại thì không thể hú”.
Tiếng kêu ám ảnh trong đêm đó đã khơi dậy một sứ mệnh để chứng minh loài sói Nhật Bản vẫn còn tồn tại. Bằng chứng thuyết phục nhất của Yagi xuất hiện vào một đêm mưa tháng 10 năm 1996. Khi đang lái xe qua Công viên quốc gia Chichibu Tama Kai, ông đã gặp một con vật giống sói xuất hiện từ một con suối và tiến đến gần xe của ông mà không hề sợ hãi.
Năm 1996, Hiroshi Yagi, người đã tìm kiếm loài sói Nhật Bản đã tuyệt chủng trong 50 năm, đã chụp 19 bức ảnh về một loài động vật giống sói đang đối mặt với ông.
“Chuyện này xảy ra cách đây gần 30 năm, và khi đó tôi không có nhiều kiến thức chuyên môn”, Yagi kể lại. “Nhưng tôi nghĩ, đây hẳn là một con sói”. Ông đã chụp được 19 bức ảnh về sinh vật này ở cự ly gần. Hành vi của con vật thật đáng kinh ngạc – nó không hề tỏ ra cảnh giác với con người, như người ta có thể mong đợi ở loài săn mồi đỉnh cao của vùng núi.
Yagi thậm chí còn cố gắng đưa cho con vật một chiếc bánh gạo. “Tôi quyết định sẽ thử đưa cho nó một chiếc osenbei (một chiếc bánh gạo) và đưa tay ra đưa cho nó”, ông nói. “Tôi thuận tay phải, vì vậy tôi đưa chiếc bánh gạo cho nó bằng tay trái, nghĩ rằng ngay cả khi nó cắn tay trái của tôi, tôi vẫn ổn”. Tuy nhiên con vật từ chối món ăn này, nhưng vẫn ở gần, cho phép Yagi quan sát nó một cách cẩn thận.
“Lúc này, nó đã ở ngay trước mặt tôi. Tôi đã đưa chiếc bánh gạo ngay dưới miệng của nó. Nhưng con vật đã không nhận lấy. Nó chỉ đứng đó”, Yagi nói. “Tôi cố gắng xem nó có mùi giống như một con thú hoang không, nhưng con vật này hoàn toàn không có. Nó không có mùi. Và giống như một đứa trẻ mới sinh, nó không biết hoặc sợ nguy hiểm”.
Do không có đủ bằng chứng xác định cảnh tượng mà Yagi nhìn thấy là một con sói Nhật Bản, nên sinh vật này được gọi là “ chó hoang” Chichibu.
Những bức ảnh Yagi chụp đêm đó đã khơi dậy trí tưởng tượng và tranh luận của nhiều người. Một nhà động vật học nổi tiếng người Nhật đã xem xét những bức ảnh và mô tả con vật này là “cực kỳ giống sói”, nhưng ông không xác định chắc chắn nó là loài đã tuyệt chủng. Do đó, sinh vật này được gọi là “Chichibu yaken” hay “chó hoang” Chichibu.
Cuộc gặp gỡ của Yagi đã truyền cảm hứng cho những người khác kể lại câu chuyện của riêng họ về những lần nhìn thấy sinh vật giống sói trong khu vực. Việc tích lũy các báo cáo này đã duy trì hy vọng rằng loài sói Nhật Bản có thể đã sống sót bằng cách nào đó như ẩn náu trong vùng núi hoang vu hẻo lánh.
Theo một nhà động vật học nổi tiếng người Nhật Bản, sinh vật này “cực kỳ giống sói”.
Trong những năm gần đây, Yagi đã sử dụng công nghệ hiện đại trong quá trình tìm kiếm liên tục của mình. Ông và một nhóm nhỏ những người đam mê đã lắp đặt khoảng 70 camera hồng ngoại kích hoạt chuyển động trên khắp dãy núi Okuchichibu. Những nỗ lực của họ đã mang lại một bằng chứng thú vị vào năm 2018.
Một trong những máy quay đã ghi lại cảnh quay bên dưới về ba con nai chạy qua. Thoạt nhìn, điều này có vẻ không có gì đáng chú ý, nhưng khi phân tích kỹ lưỡng âm thanh, người ta phát hiện ra một điều có khả năng mang tính đột phá – thứ dường như là tiếng hú của một con sói ở phía sau.
“Chúng tôi đã mang tiếng hú được ghi lại đến một chuyên gia, và ông ấy đã so sánh nó với tiếng hú của loài sói phương Đông được nuôi tại Vườn thú Asahikawa ở Hokkaido”, Yagi giải thích. “Ông ấy tuyên bố với 99,5% sự chắc chắn rằng hai tiếng hú đó là của cùng một loài động vật, và tôi đã nhận được giấy chứng nhận xác thực cho bản ghi âm tiếng hú của loài sói”.
`111
Bằng chứng âm thanh này đã khơi dậy lại mối quan tâm về khả năng loài sói Nhật Bản vẫn còn tồn tại. Nó bổ sung vào danh sách dài các cuộc nhìn thấy và chạm trán được báo cáo trong suốt thế kỷ 20 và 21.
Câu chuyện về sự tuyệt chủng và khả năng sống sót của loài sói Nhật Bản gắn chặt với lịch sử văn hóa và môi trường của Nhật Bản. Từng được tôn kính trong tín ngưỡng Shinto như một sứ giả của các vị thần kami bảo vệ du khách trên những con đường mòn trên núi và bảo vệ khỏi các loài động vật phá hoại mùa màng như lợn rừng và hươu, nhưng mối quan hệ giữa loài sói và con người trở nên tồi tệ vào thế kỷ 18. Sự du nhập của bệnh dại đã dẫn đến hành vi hung dữ hơn ở một con sói, và nạn phá rừng khiến chúng ngày càng xung đột với nông dân và dân làng.
Cuộc Duy tân Minh Trị vào cuối thế kỷ 19 đã chứng kiến việc giết sói trở thành chính sách quốc gia. Chỉ trong vòng một thế hệ, loài sói Nhật Bản đã bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng. Mẫu vật cuối cùng được xác nhận đã bị giết ở Quận Nara vào ngày 23 tháng 1 năm 1905.
Mẫu vật của loài sói Nhật Bản tại Vườn thú Ueno, Nhật Bản.
Tuy nhiên, khả năng sống sót của loài sói đã thu hút trí tưởng tượng của nhiều người. Alex Martin, một nhà báo người Mỹ gốc Nhật đã tự mình tìm kiếm sau khi nghe câu chuyện của Yagi: “Có rất nhiều lời kể về việc nhìn thấy, báo cáo về tiếng hú và phát hiện ra xương, phân cũng như lông sói được cho là đã khiến một số người tin rằng loài vật này có thể vẫn còn sống và đang lang thang trên những ngọn núi của Nhật Bản”.
Cuộc tìm kiếm để chứng minh sự tồn tại của loài sói Nhật Bản đang phải đối mặt với những thách thức đáng kể. Loài này chủ yếu di chuyển theo bầy nhỏ, nhưng hầu hết các báo cáo về việc nhìn thấy chúng đều là những con vật đơn độc. Ngoài ra, việc khai thác gỗ tràn lan ở môi trường sống rừng rụng lá ưa thích của loài sói sau Thế chiến II đã làm thay đổi đáng kể hệ sinh thái.
Bất chấp những trở ngại này, Yagi vẫn không nao núng. Niềm tin vững chắc của ông vào sự sống còn của loài sói đã thúc đẩy ông trong hơn năm thập kỷ.
Một trong 19 bức ảnh được chụp bởi Yagi.
Cho dù loài sói Nhật Bản vẫn ám ảnh những ngọn núi sương mù hay chỉ tồn tại trong truyền thuyết, thì hành trình tìm kiếm loài sói này đã trở thành một câu chuyện mạnh mẽ theo đúng nghĩa của nó. Khi cuộc tìm kiếm vẫn tiếp tục, chỉ có bằng chứng DNA mới có thể thực sự xác nhận hoặc phủ nhận danh tính của loài chó hoang dã được nhìn thấy ở vùng núi Nhật Bản. Cho đến lúc đó, khả năng loài sói Nhật Bản còn sống sót vẫn là một bí ẩn hấp dẫn, được duy trì nhờ sự tận tụy của những cá nhân như Hiroshi Yagi và ý nghĩa văn hóa lâu dài của loài sinh vật bí ẩn này trong văn hóa dân gian và trí tưởng tượng của Nhật Bản.
Dog: Một trong những bí ẩn lâu đời nhất của Nhật Bản
Chúng ta biết rất nhiều về những gì đã xảy ra trong quá khứ thông qua việc phục hồi và nghiên cứu các vật phẩm khảo cổ. Tuy nhiên vẫn có những bí ẩn trong quá khứ mà cho tới thời điểm hiện tại chúng ta vẫn chưa thể hiểu hết.
Khi thời gian trôi qua và con người bắt đầu tiến hóa, phát triển ngôn ngữ, chữ viết. Kiến thức của chúng ta chủ yếu được ghi lại chỉ từ khi phát triển từ chữ hình nêm, chữ tượng hình Ai Cập và các văn bản Hy Lạp do các nhà sử học thời đó viết. Chúng ta có thể đọc, tìm hiểu và diễn giải nội dung của những tác phẩm cổ xưa này.
Điều đáng thất vọng về lịch sử của con người là trước khi các nền văn hóa bắt đầu có chữ viết, chúng ta không biết các tập tục văn hóa của họ là gì. Những vật phẩm khảo cổ trong thời gian đó đại diện cho điều gì hoặc mục đích cụ thể của chúng ra sao. Hay chỉ đơn giản là liệu những vật dụng nhỏ không phải là công cụ có được sử dụng trong truyền thống tôn giáo của một số người hay không.
Vẫn còn quá nhiều điều mà cho tới ngày nay chúng ta vẫn chưa thể giải thích một cách rõ ràng. Nó khiến chúng ta tìm kiếm câu trả lời, suy đoán và đưa ra các lý thuyết từ logic đến phi logic trong sự tuyệt vọng này để khám phá về quá khứ của nhân loại.
Một trong những món đồ cổ xưa và khó hiểu này mà chúng ta tìm được chính là bức tượng nhỏ dog được làm ở Nhật Bản thời tiền sử.
Dog, có nghĩa là "tượng đất", là những tượng nhỏ bằng đất sét có hình người hoặc động vật được tạo ra vào cuối thời kỳ Jmon của Nhật Bản thời tiền sử. Điều khiến những bức tượng nhỏ dog trở nên hấp dẫn là các học giả không biết những bức tượng nhỏ này được tạo ra để làm gì hoặc chúng đại diện cho điều gì.
Thời kỳ Jmon thực sự là một thời kỳ dài, một thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 14.000 đến năm 300 trước Công nguyên. Vào thời điểm đó, người dân Nhật Bản là những người săn bắn hái lượm. Các cộng đồng nông nghiệp ban đầu cũng được hình thành trong suốt thời kỳ của nền văn hóa Jmon.
Vào đầu thời kỳ Jmon, những hình thức đồ gốm đầu tiên tại Nhật Bản đã phát triển. Năm 1998, nhà khảo cổ học và nhà động vật học người Mỹ, Edward S. Morse, đã tìm thấy những mảnh gốm đầu tiên từ thời kỳ Jmon.
Chính Morse đã đặt tên cho khoảng thời gian đó; Jmon có nghĩa là "dây đánh dấu". Phong cách đồ gốm từ thời kỳ đầu của nền văn hóa Jmon được trang trí bằng cách ấn dây vào đất sét ướt để tạo thành các kiểu dáng và kết cấu khác nhau.
Chúng ta không biết mục đích và tầm quan trọng của các bức tượng nhỏ này cụ thể là gì vì chữ viết ở Nhật Bản chỉ bắt đầu phát triển từ thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên, một thời gian dài sau khi dog được tạo ra. Dog chỉ được tạo ra trong thời kỳ Jmon, và vào thời điểm tiếp theo của thời tiền sử Nhật Bản xảy ra, các bức tượng dog cũng không được tạo ra nữa.
Tất cả các lý thuyết và cách giải thích về những gì mà cách bức tượng dog đại diện đều là suy đoán và là một trong nhiều lý do tại sao những hình tượng nhỏ bằng đất sét này lại rất bí ẩn. Trên thực tế, chúng ta biết được rằng có một số phong cách tạo hình dog khác nhau, phần lớn phụ thuộc vào nơi tìm thấy các đồ tạo tác và khoảng thời gian mà dog được tạo ra.
Tại sao những phong cách này phát triển cũng là một phần bí ẩn của dog.
Những bức tượng dog đều nhỏ và có kích thước từ 10 cm đến 30 cm, phần lớn các dog được tìm thấy đều có hình dáng cơ thể phụ nữ. Các đặc điểm chung bao gồm mắt to, eo nhỏ, hông rộng và đôi khi bụng to như bụng bầu.
Nhiều học giả tin rằng những bức tượng nhỏ này là đại diện của một nữ thần mẹ trong nền văn minh cổ xưa của Nhật Bản. Điều này được đưa ra bởi dog khá giống với những bức tượng nhỏ thời kỳ đồ đá mới khác như Thần Vệ nữ của Willendorf. Có khả năng dog là vật phẩm có liên quan đến khả năng sinh sản và các nghi lễ của thầy cúng.
Vẻ ngoài của dog trông như thể nó đang đeo kính bơi hoặc có khuôn mặt hình trái tim rõ ràng. Điều thú vị nữa là hầu hết các dog được tìm thấy đều có các dấu hiệu trên mặt, vai và ngực có thể cho thấy chúng có hình xăm.
Có bốn hình dạng khác nhau của dog: "kiểu phụ nữ mang thai", "kiểu cú có sừng", "kiểu mắt híp" và "kiểu lông mày hình trái tim hoặc lưỡi liềm". Loại mắt híp, còn được gọi là Shakkidog, đã trở nên nổi tiếng và dễ nhận biết đến mức nhiều người Nhật Bản nghĩ đến Shakkidog khi ai đó nhắc đến các nhân vật dog.
Loại dog đeo kính có tên từ shakki, nghĩa đen là "thiết bị chặn ánh sáng". Kính bảo hộ có bề ngoài tương tự như kính đi tuyết truyền thống của thổ dân Inuit và Yupik ở Alaska và Siberia .
Rất hiếm khi tìm thấy một dog nguyên vẹn. Hầu hết các dog được tìm thấy đều bị mất chân, tay hoặc một bộ phận cơ thể khác. Trong khi một số bị gãy, đã có một số dog được tìm thấy có chi đã bị cắt đứt một cách có chủ ý.
Chúng ta có thể sẽ không bao giờ biết được mục đích thực sự của dog là gì. Vì không có ngôn ngữ viết vào thời điểm chúng được tạo ra.
Người ta tin rằng dog được tạo ra và sở hữu bởi phụ nữ (không có bằng chứng nào cho thấy chúng được tạo ra bởi phụ nữ hoặc ai sẽ sở hữu chúng, vì vậy đây hoàn toàn chỉ là suy đoán) và là biểu tượng của sự tái sinh, sinh sản.
Nhật Bản phục hồi cách đánh cá bằng chim cốc Lần đầu tiên sau 21 năm, hoạt động đánh bắt bằng chim cốc không bị buộc dây đã được hồi sinh ở Nhật Bản. Trong một cuộc trình diễn, khi người chủ gọi, những con chim cốc quay trở lại bờ ao nhân tạo, cổ họng của chúng căng phồng cá. Chủ thả chim cốc vào ao. Ảnh: Asahi Shimbun Khung cảnh giống...