SỐC NẶNG: Giá lợn 10.000 đồng/kg, Hà Nội sẽ tiêu diệt bớt lợn nái
“Sáng nay (27.4), tôi đi khảo sát một loạt chợ tại Hà Nội và giật mình khi được biết, giá thịt lợn hơi chỉ còn 10.000 -12.000 đồng/kg, một số trang trại đã bán lợn với giá đó để cắt lỗ. Với giá này, thịt lợn của chúng ta còn rẻ hơn giá lợn thải loại của thế giới”.
Ông Tạ Văn Tường – Giám đốc Trung tâm phát triển chăn nuôi Hà Nội (Sở NNPTNT Hà Nội) cho biết tại Hội nghị triển khai các giải pháp ổn định chăn nuôi trên địa bàn Hà Nội tổ chức sáng nay (27.4).
Hội nghị diễn ra trong không khí hết sức căng thẳng.
Hốn chôn lợn nhiều như nghĩa trang
Ông Tường cho hay: “Giá lợn xuống thấp quá nhiều khiến các trang trại thay vì đưa lợn ra lò mổ để giết thịt, họ đã tự giết mổ ngay tại trang trại để giảm chi phí. Người nuôi giờ không quan tâm đến lợn nữa, lợn con chạy lung tung ra ngoài đường cũng mặc kệ, ai lấy thì lấy. Hôm qua tôi đi thăm các trạng trại nuôi lợn, nhiều trang trại nuôi đã phải cắm hết sổ đỏ để duy trì nuôi lợn mà lợn vẫn chưa bán được, tình hình đang rất khó khăn cho người nuôi”.
Mổ xẻ nguyên nhân giá lợn thấp, ông Tường cho rằng: “Vì lợn dư thừa quá lớn trong dân, tiêu thụ trong nước chủ yếu dùng thịt nóng, lợn phải mổ trong ngày, nên giá bán ở chợ giảm”.
Theo ông Tường, thói quen tiêu dùng phải được thay đổi, thế giới toàn dùng thịt lạnh (mát), thịt cấp đông và chế biến nhiều sản phẩm đa dạng. Thịt nóng dễ tồn tại và phát triển vi khuẩn, cấp đông sẽ loại trừ dịch bệnh, khống chế vi khuẩn”.
Cung đề cập đến tình trạng này, ông nguyễn Hưng Thỉnh – Chủ trại nuôi lợn xã Thọ Lộc (huyên Phúc Thọ) băn khăn hoi: “Vì sao lại có tình trạng cung vượt cầu, phải chăng do Nhà nước không có quy hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết, không cung cấp thông tin cho bà con về định hướng thị trường, kế hoạch sản xuất trong năm. Lợn trong dân dư thừa mà DN vân nhập khẩu thịt lợn, tại sao lại như thế?”.
Ông Thỉnh chua xót noi thêm: “Lợn đã ăn nát sổ đỏ, lợn đã ủi cả két tiền của người nuôi rồi. Hiện nay bà con đã chán nuôi lợn, không có tiền mua thức ăn cho lợn, đê lợn con chạy đầy đường”. Tương tư, ông Đinh Xuân Thủy – Chủ hộ nuôi lợn xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa cho biết: “Từ tháng 1 đến nay gần như các trại lơn giông đóng băng, không bán được con nao. Môt con lơn giông 15kg gia 300.000 đồng. Các hố chôn lợn giờ nhiều như nghĩa trang, vì lợn con không nuôi được, cũng không bán được, cac hô chăn nuôi đa can tiên ca rôi. Giơ chi mong nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay để chúng tôi bớt khó khăn, tiếp tục duy trì sản xuất”.
Video đang HOT
Hiện giá lợn tại chợ ở Hà Nội cũng đang lao dốc nhanh chóng.
Với mức giá thấp như vậy, chỉ trong 6-8 tháng tới, nguồn lợn ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ sẽ không còn nữa, người nuôi sẽ bỏ chuồng vì không đủ sức để tái đàn, lúc đó tình trạng khan hiếm thịt lợn sẽ xảy ra. “Hiện nay số lượng lợn nái còn nhiều nên lượng cung dư thừa vẫn còn kéo dài. Trong những tháng tới tình hình chăn nuôi sẽ còn khó khăn hơn nữa khi bước sang mùa hè nóng nực, người tiêu dùng sẽ ít ăn thịt hơn, thay vào đó họ sẽ chuyển sang ăn các sản phẩm khác như hải sản, thịt gà, vịt” – ông Tường nhận định.
Ông Tạ Văn Tường: Giá lợn có nơi chỉ còn 10.000-12.000 đồng/kg.
Với tình trạng bi đát này, nguy cơ bùng phát đại dịch trong thời gian ngắn tới là rất cao. Theo lý giải của ông Tường, người nuôi giờ không còn tiền để nuôi lợn, họ sẽ không tiêm vắc xin phòng bệnh cho lợn, chăn nuôi buông thả, thậm chí bỏ đói lợn, dịch bệnh sẽ bùng phát”.
Đối mặt với dịch bệnh
Trong tinh canh bi đát, ngành chăn nuôi lơn sẽ phải đối mặt với nhưng nguy cơ vê dich bênh. Ông Nguyễn Trọng Long – Hợp tác xã chăn nuôi Hoàng Long, huyện Thanh Oai lo ngại: “Gia lơn hơi thâp nên người nuôi se tim cach giảm chi phí bằng viêc giảm tiêm vaccine phòng bệnh, giam quan tâm chăm soc đan lơn. Cứ như thế thi nguy cơ bùng phát dịch bệnh se rất nhanh và khó kiểm soát”.
Để viễn cảnh này không xảy ra, ông Nhữ Đình Tú – Tổng Giám đốc Công ty CP Lebio cho rằng: “Tôi đề nghị các cấp, ngành đề xuất Chính phủ hỗ trợ vaccine miễn phí cho các hộ nuôi. Tôi cũng là một người nông dân nên cảm thấy rất chua xót, cay đắng khi chứng kiến thảm cảnh này. E rằng giá này chưa phải là đáy, co thê se tiếp tục giam nữa”.
Vê giải pháp lâu dài để ổn định sản xuất chăn nuôi lợn, ông Nguyễn Huy Đăng – Phó Giám đốc Sở NNPTNT Hà Nội cho răng: “Cần tăng cường công tác sản xuất giống, nâng cao năng suất chăn nuôi, giảm thảm giá thành va từng bước đưa sản xuất con giống là sản phẩm chủ lực của ngành để vừa cung cấp giống cho thành phố và các tỉnh khác. Trong thời gian tới, cần tập trung xây dựng một số cơ sở chăn nuôi, sản xuất giống theo hình tháp 4 cấp từ cụ kỵ – ông bà – bố mẹ – thương phẩm”.
Để ổn định tình hình, theo ông Tường, trước mắt các hộ chăn nuôi cần giảm nhanh đàn lợn nái, các trang trại chăn nuôi quy mô lớn cần loại ngay lợn nái kém chất lượng, năng suất sinh sản thấp (số lợn nái kém chất lượng hiện nay chiếm khoảng 30-40% tổng đàn nái). Đối với Hà Nội, cần giảm đàn lợn nái xuống còn 180.000-200.000 con. Đồng thời khuyến cáo cơ sở chăn nuôi loại thêm lợn con sơ sinh có trọng lượng thấp dưới 0,8kg/con, sức khỏe kém. Các DN giết mổ, chế biến cần hợp tác chặt chẽ hơn với trại chăn nuôi để thực hiện hợp đồng giết mổ, chế biến cấp đông sản phẩm chăn nuôi. Tăng cường chế biến, đa dạng hóa sản phẩm thức ăn từ lợn, tăng sức tiêu thụ của thị trường trong nước, tăng cường giết mổ cấp đông lợn sữa để xuất khẩu hoặc tiêu thụ thị trường nội địa.
Theo Danviet
Thu nhập cao từ nuôi trồng "hàng độc": Sống khỏe với con đặc sản
Chăn nuôi lợn, gà công nghiệp hay trồng lúa, rau màu... thường bấp bênh, rủi ro cao, lợi nhuận thấp. Do đó, thời gian gần đây, một bộ phận nông dân đã chuyển hướng sang đầu tư chăn nuôi các loại con đặc sản, nhờ đó luôn giữ được giá bán cao, thu nhập ổn định. Đáng chú ý, việc chăn nuôi con đặc sản đã thu hút một số doanh nghiệp tham gia, biến những vật nuôi đặc sản trở thành hàng hoá có giá trị cao.
Trong lúc ngành chăn nuôi lợn công nghiệp đang rơi vào "tâm bão" giảm giá, nhiều người bị thua lỗ nặng thì những người nuôi lợn Mông, lợn rừng, hay nuôi gà đặc sản như gà Hồ, gà Đông Tảo... vẫn sống khoẻ.
Nhu cầu cao, nguồn cung còn ít
Thực tế cho thấy, thời gian qua, nhờ phát triển những giống gà đặc sản mà nhiều vùng chăn nuôi đã khởi sắc nhanh chóng về kinh tế, điển hình như tại huyện Khoái Châu (Hưng Yên) có phong trào nuôi gà Đông Tảo; thị trấn Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh) với việc bảo tồn và phát triển giống gà Hồ; xã Tiên Phong (Duy Tiên, Hà Nam) với con gà Móng; hay giống gà mía ở xã Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội)... Những con gà đặc sản có giá trị lên tới vài triệu đồng đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể cho người chăn nuôi.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp, trong số những vật nuôi truyền thống, bản địa của Việt Nam thì thành công nhất chính là con gà lông màu. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, hiện tổng đàn gia cầm của cả nước khoảng 300 triệu con, trong đó chiếm 20 - 25% là gà công nghiệp lông trắng; 15 - 20% là gà đẻ trứng, còn lại chiếm khoảng 50 - 60% là gà lông màu mang gen bản địa.
Anh Nguyễn Văn Trường cho đàn gà Hồ ăn tại trang trại của gia đình ở huyện Thuận Thành (Bắc Ninh). ảnh: Trần Quang
Các giống gà lông màu đang thống trị thị trường Việt Nam đều có nguồn gốc từ giống gà bản địa của nước ta như: Gà mía, gà ri, gà chọi, gà Đông Tảo, gà Hồ, gà tre... trên cơ sở kết hợp ưu thế lai với giống gà mái nền Lương Phượng nhập ngoại. Ông Nguyễn Quý Khiêm - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương (Viện Chăn nuôi) chia sẻ, đa phần các giống gà bản địa của Việt Nam đẻ kém, tốc độ sinh trưởng chậm, dài ngày nên giá thành cao, nhưng đổi lại khả năng chống chịu, thích nghi với thời tiết tốt, thịt thơm ngon hợp khẩu vị người Việt. Do đó, để phát huy tối đa lợi thế của các giống gà bản địa, chúng ta phải tận dụng thế mạnh của ưu thế lai.
TS Võ Văn Sự - Chi hội động vật quý hiếm (Hội Chăn nuôi Việt Nam) cũng nhận định, do dễ nuôi và ít vốn hơn để nuôi so với các loài vật nuôi khác, nên việc chăn nuôi gà đặc sản trong giai đoạn vừa qua khá phát triển. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ của gà đặc sản hiện nay vẫn khá hạn hẹp, phần lớn chỉ tiêu thụ trong các dịp lễ, tết hoặc chỉ bán được cho các nhà hàng, khách sạn; người tiêu dùng bình thường rất ít mua cho bữa ăn hàng ngày do giá bán còn tương đối cao. Đó là lý do khiến các mô hình nuôi gà Hồ, gà Đông Tảo... còn quá ít và nhỏ bé, không thấm thía so với nhu cầu ăn ngon của người tiêu dùng hiện nay.
Cần doanh nghiệp khai phá
Hiện bình quân mỗi năm Trung tâm Nghiên cứu gia cầm Thụy Phương cung cấp ra thị trường cho các doanh nghiệp, người dân khoảng 500.000 gà bố mẹ, đồng nghĩa với việc tạo ra khoảng 60 triệu gà thương phẩm, trong đó hầu hết gà giống có sử dụng mái nền là gà Lương Phượng. Gà mái Lương Phượng đẻ tốt, tốc độ sinh trưởng nhanh nên khi lai tạo với trống các giống gà bản địa như gà mía, gà Hồ, Đông Tảo, gà chọi sẽ cho ra con lai F1 có ưu điểm cả về hình thức, chất lượng thịt cũng như tốc độ sinh trưởng.
Để phát huy tốt tiềm năng vật nuôi đặc sản nói chung, cũng như những giống gà bản địa nói riêng, các chuyên gia ngành chăn nuôi đều cho rằng người nuôi cần chú trọng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm bằng cách nuôi theo quy trình VietGAP; quay trở lại nuôi theo kiểu truyền thống (tức không kháng sinh, không cám tăng trọng, cho ăn nhiều rau xanh, lúa ngô...). Đặc biệt là cần phát triển với quy mô lớn hơn nhằm đảm bảo sự đồng đều, nhiều mẫu mã, nhất là giảm giá thành sản phẩm và tăng cường các mặt hàng chế biến.
Ông Nguyễn Đăng Chung - Giám đốc HTX Chăn nuôi gà Hồ, thị trấn Lạc Thổ (Thuận Thành, Bắc Ninh) cho biết ông rất tin tưởng vào tương lai sáng của con gà Hồ. Sau thời gian vất vả giữ gìn giống gà Hồ quý khỏi nguy cơ tuyệt chủng, hiện trên địa bàn đã có khoảng 100 hộ nuôi gà Hồ, với tổng đàn gà gần 3.000 con.
Cũng gắn bó với vật nuôi đặc sản, từ nhiều năm nay chị Lê Thị Thuý Dung (Công ty Nông lâm ngư Quảng Ninh, đơn vị sở hữu trang trại lợn Móng Cái lớn nhất Quảng Ninh) đã nhận thấy tiềm năng kinh tế rất lớn từ giống lợn Móng Cái so với các giống lợn ngoại. Sau 5 năm gây dựng, hiện trang trại của chị Dung sở hữu trên 500 con lợn Móng Cái bố mẹ thuần chủng, mỗi năm cung cấp cho người dân khoảng 8.000 con lợn giống.
Chị Dung cho biết, ngoài những ưu điểm nổi trội, lợn Móng Cái có hai nhược điểm liên quan tới khả năng sinh sản và thịt hơi mỡ. Để khắc phục hạn chế này, chị Dung đã sàng lọc, tuyển chọn được những con nái Móng Cái có thể đẻ tới 15 - 18 con/lứa, còn lại đại đa số bình quân 12 - 14 con/lứa. Để giảm tỷ lệ mỡ, trang trại của chị sử dụng 100% thức ăn tự phối trộn từ ngô, sắn, cám gạo, rau xanh... và tuyệt đối không sử dụng thức ăn công nghiệp, nhờ đó tỷ lệ nạc của con lợn tăng lên đáng kể, phù hợp với đa số đối tượng người tiêu dùng. Nhờ kết hợp với xây dựng thương hiệu, tích cực quảng bá nên sản phẩm tại trang trại của chị Dung hiện tiêu thụ rất thuận lợi, giá bán ổn định.
Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng, hiện các công ty cung cấp giống gia cầm lớn cũng chủ yếu tập trung vào giống gà lông màu có sử dụng nguồn gen từ giống gà đặc sản bản địa trên cơ sở kết hợp ưu thế lai với giống gà mái nền Lương Phượng nhập ngoại.
Điển hình như Công ty Giống gia cầm Lượng Huệ mỗi năm sản xuất gần 20 triệu gà giống với tỷ lệ thuần chủng khoảng 70%. Còn Công ty Dabaco (Bắc Ninh) từ năm 2008 đến nay đã tập trung phát triển các giống gà lông màu, và gần đây còn nghiên cứu, phát triển giống gà 9 cựa đặc biệt quý hiếm, có giá trị kinh tế cao để tung ra thị trường. /.
Theo Danviet
Giá lợn rớt thê thảm: Khơi thông thị trường ASEAN thay Trung Quốc Việc các doanh nghiệp (DN) giảm giá bán thức ăn, thuốc thú y, con giống là sự chia sẻ hết sức cần thiết đối với người chăn nuôi lợn. Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, một vướng mắc rất quan trọng khác cần được tháo gỡ đó là khơi thông thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Trách nhiệm này...