Shan tuyết Cao Bồ có gì đặc biệt khiến dân sành trà còn tấm tắc?
Mảnh đất Cao Bồ ( huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang) không phụ lòng những con người biết gắn bó, bám trụ với loại cây đặc sản và dám thay đổi tư duy nông nghiệp.
Nhờ sản xuất, chế biến chè Shan Tuyết cổ thụ, nhiều hộ DTTS ở Cao Bồ có thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng mỗi năm.
So với Đồng Văn, các xã vùng cao biên giới của huyện Vị Xuyên như Cao Bồ từng chịu nhiều mất mát trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc của Tổ quốc. Do những đặc trưng về địa hình, Cao Bồ nói riêng, Vị Xuyên nói chung có diện tích trồng trọt cây lương thực xếp vào diện khiêm tốn trong cả nước. Bởi vậy, bảo đảm an ninh lương thực ở Cao Bồ từ lâu luôn là một nhiệm vụ mang tính sống còn chứ chưa bàn đến chuyện làm giàu từ miền đất hoang vu này. Khí hậu khắc nghiệt của vùng cao khiến đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Cao Bồ thêm phần vất vả.
Món quà thiên phú
Người dân Cao Bồ gắn bó với những cây chè Shan tuyết cổ thụ
Đường vào thôn Thăm Vè, Cao Bồ bị cắt phăng bởi con suối vừa hứng chịu trận mưa lớn. Trên chiếc xe bán tải chở cánh phóng viên, Chủ tịch xã Lý Quốc Hưng vừa cầm lái vừa hào hứng “quảng cáo” rằng: “Đến Cao Bồ, không thưởng thức, không nghe về chè Shan Tuyết cổ thụ, món quà thiên phú cho dân nơi đây thì quả thực là đáng tiếc”.
Ông Hưng cho biết, sở dĩ gọi chè Shan Tuyết bởi nhiều nơi của Hà Giang như Cao Bồ, nằm trên độ cao hơn 400m so với mực nước biển, quanh năm sương phủ, mây mù. Mỗi cánh chè, khi sao lên đều phủ một lớp lông tơ mịn màng, trắng như tuyết.
Cả 11 thôn ở xã Cao Bồ đều trồng chè với diện tích gần 1.000 ha. Nhà không trồng tập trung thành vườn lớn thì cũng trồng dặm, xen dưới tán rừng quế, dổi, lát, trám… Có những cây chè san tuyết cổ thụ vòng gốc bằng một người trưởng thành, dang rộng tay ôm mới kín. Nhiều cây khác có đường kính từ 50 – 80cm, cao từ 15 – 20m. Tán cây mở rộng từ 3 – 5m, che kín cả một vùng. Có những cây cành to, vươn xa, người hái chè không thể với tới mà phải dùng dao đi rừng phạt cả cành chè xuống để vặt búp…
Khí hậu và thổ nhưỡng đã giúp những vườn chè Shan tuyết ở đây phát triển tốt và mang hương vị rất riêng. Đặc biệt, chất lượng chè còn được nâng cao bởi tất cả các công đoạn từ khâu gieo trồng, thu hái, sơ chế cho tới khi thành phẩm đều được làm thủ công, tự nhiên, không sử dụng hóa chất.
Video đang HOT
Chè hái xong rải đều, quạt cho ráo nước, khô sương và thoát hết khí nóng ẩm
Nhờ cây chè, người dân Cao Bồ có công ăn việc làm thường xuyên, tạo nguồn thu đáng kể giúp xóa đói, giảm nghèo, đời sống được cải thiện. Trung bình, mỗi gia đình thu hoạch được khoảng 45 triệu đồng/năm, một số hộ “lên hạng” với thu nhập vài trăm triệu đồng/năm.
“Chè Shan Tuyết cổ thụ là cây đặc hữu của Cao Bồ. Cây chè gắn bó như máu thịt, là đời sống, tâm hồn và biểu tượng của vùng núi non hùng vĩ này. Còn chè cổ thụ là còn thương hiệu chè Cao Bồ”, ông Lý Quốc Hưng khẳng định.
Bán “đặc sản” thời công nghệ
Theo chân Chủ tịch xã Cao Bồ, chúng tôi tới nhà anh Hoàng Tinh Kiêm ở thôn Thăm Vè – một trong nhiều hộ gia đình ăn nên làm ra từ cây chè địa phương. Ngồi giữa căn nhà còn thơm mùi gỗ và đồ đạc mới, vợ chồng anh Kiêm mời chúng tôi thưởng thức ấm trà búp tôm một lá, sản vật mà gia đình họ chỉ để dành tiếp khách quý.
Anh Kiêm cho biết: Từ khi tôi sinh ra, cây chè đã hiện hữu, thế hệ này nối tiếp thế hệ khác mưu sinh cùng chè. Ba năm trước, khi mạng Internet bắt đầu “phổ cập” thôn xóm, biết đến phương pháp chế biến chè qua mạng xã hội, tôi bắt đầu học hỏi và gắn bó với nghề chế biến chè từ đó.
Anh Hoàng Tinh Kiêm thực hiện kỹ thuật sao chè bằng tay
Khi chương trình hỗ trợ vốn cho người dân về đến thôn bản, anh Kiêm cùng nhiều hộ khác được chính quyền xã động viên, cho đi dự các chương trình tập huấn, chia sẻ kinh nghiệm nhiều lần, dần dần anh cùng người dân trong thôn bản đã biết chế biến, kinh doanh cây chè.
Mảnh đất Cao Bồ đã không phụ lòng những con người biết gắn bó, bám trụ với nó và thay đổi tư duy nông nghiệp như gia đình anh Kiêm. Thổ nhưỡng và khí hậu nơi đây phù hợp với cây chè, cây thảo quả hơn là những giống cây lương thực truyền thống.
Anh Kiêm cho biết, mỗi năm, chè cho thu hoạch ba vụ. Ban đầu, anh Kiêm đăng bán online trên mạng facebook, zalo, khách hàng chưa tin tưởng, anh phải gửi mẫu đi cho họ thử. Thử rồi, khách hàng tìm đến anh Kiêm ngày càng đông.
Thổ nhưỡng, khí hậu, quá trình canh tác sạch và cách chế biến thủ công đã tạo nên hương vị đặc biệt cho chè Shan tuyết cổ thụ Cao Bồ
Hiện nay, sản phẩm chè của anh Kiêm đi khắp cả nước, rồi xuất khẩu sang Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga. Trung bình mỗi năm, gia đình anh Kiêm thu được khoảng 90 – 120 triệu đồng.
Chỉ vào hai chiếc máy sao chè mới, anh Kiêm bảo hai chiếc máy này được gia đình mua từ nguồn vốn hỗ trợ do chương trình CPRP (Chương trình giảm nghèo dựa trên phát triển hàng hóa) của huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang cấp. “Còn chiếc ô tô ngoài sân kia, gia đình chúng tôi mới mua từ thành công của vụ chè năm trước”, anh Khiêm hồ hởi.
Giống như gia đình anh Hoàng Tinh Kiêm, nhiều hộ gia đình xã Cao Bồ đã dần thay đổi nếp nghĩ, tập quán canh tác lạc hậu phụ thuộc vào thời tiết để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi bản địa. Từ cây xóa đói giảm nghèo, giờ đây chè Shan tuyết Cao Bồ đã và đang trở thành một trong những thương hiệu nông sản uy tín, được người dân trong nước và bạn bè quốc tế biết đến, đồng thời giúp người dân Cao Bồ làm giàu bằng sức lao động chân chính của họ.
Nhờ những nỗ lực trong việc bảo vệ rừng chè san tuyết cổ thụ và thu hái, chế biến thủ công, năm 2011, chè shan tuyết Cao Bồ chính thức được Liên đoàn quốc tế về phong trào sản xuất nông nghiệp hữu cơ (IFOAM) cấp chứng chỉ chè hữu cơ – Organic Cao Bồ. Mỗi năm, khoảng hơn 200 tấn chè hữu cơ ở Cao Bồ được xuất khẩu sang các nước châu Âu, châu Mỹ. Đến tháng 6/2016, Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam cũng chính thức trao “Bằng công nhận cây Di sản Việt Nam” cho quần thể 220 cây chè shan tuyết trên 100 năm tuổi ở xã Cao Bồ.
Theo Danviet
Có 1 không 2: Chè nhồi ống nứa, hơ lửa, gác bếp ở Hà Giang
Trong dịp đến xã Cao Bồ (Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang), quê hương của những cây chè Shan tuyết cổ thụ hàng trăm tuổi; chúng tôi được thưởng thức loại chè chế biến theo lối cổ xưa của đồng bào Dao - chè ống lam.
Hẳn nhiều người đã nghe đến cơm lam, thứ đặc sản dân dã nhưng đậm hương vị núi rừng của bà con miền núi, thì chè ống lam được chế biến gần như vậy.
Đây là sản phẩm chỉ có ở vùng Hà Giang, nơi những ngươi Dao từ lâu có lối bảo quản chè đơn giản nhưng lại có tác dụng giữ được hương và vị của chè.
Chè ống lam hiểu đơn giản là sản phẩm chè được bảo quản trong ống cây nứa, vầu tươi; vừa giúp chè không bị hỏng, còn làm cho vị trà được nâng tầm khi có chất nhựa từ cây nứa tươi tiết ra qua các công đoạn chế biến.
Anh Lý Văn Ly chế biến chè ống lam truyền thống.
Theo anh Lý Văn Ly, người Dao áo dài sinh sống ở vùng chè Nà Thác, xã Phương Độ (thành phố Hà Giang): Chè ống lam có từ thời những người già đầu tiên biết làm chè. Ban đầu chè đã sao rồi cho vào trong ống nứa là một cách bảo quản chè đơn giản nhất tận dụng các nguyên liệu từ tự nhiên như ống cây nứa, vầu, trúc để giữ được chè lâu hơn.
Hiện nay, cơ sở sản xuất của gia đình anh Ly đang chế biến các loại chè ống lam, như: Ống lam chè tiên, ống lam hoa chè, ống lam chè đuôi rồng, ông lam chè Shan tuyết 1 tôm 1 lá và 2 lá.
Quan trọng nhất quyết định hương vị chè ống lam chính là khâu chế biến, từ công đoạn chọn ống nứa, nguyên liệu chè và nhất là quá trình sấy chè qua lửa vừa cầu kỳ vừa đậm chất riêng có của người vùng cao; giúp tạo ra sản phẩm chè thượng hạng mà ít lối chế biến nào có được.
Chè Shan tuyết được hái về sao chế ngay, sau khi được nhồi vào ống nứa sẽ hơ qua lửa cho đến khi ống nứa bắt lửa đều mà không bị cháy vỏ ngoài, những búp chè lèn chặt bên trong hút lấy nhựa cây bắt đầu lên men và tiếp tục lên men sau khi được hơ trên gác bếp cao hơn.
Chè Shan tuyết Hà Giang vốn đã có hương cốm và vị ngọt hậu trời ban, khi được nhồi vào ống lam tươi làm nóng qua hơi lửa cùng quá trình lên men tự nhiên đã giúp giữ được vị và trở thành sản phẩm riêng biệt trong các phương thức chế biến.
Chè ống lam khi pha được nước hơn trà thường, hương khói bếp quyện với hương cốm nứa gói gọn tinh túy của những búp Shan tuyết thượng hạng trong ống lam. Việc vận chuyển và bảo quản chè ống lam đơn giản hơn các loại chè thông thường.
Với phong trào sản xuất sạch, bảo vệ thiên nhiên và hạn chế sử dụng túi nhựa, thì việc bảo quản mà vẫn giữ được hương vị như chè ống lam là một lựa chọn hợp lý, nếu không muốn nói là tuyệt vời.
Ngày nay, sản xuất chè ống lam vẫn được bà con các vùng chè Thượng Sơn, Cao Bồ (Vị Xuyên); Phương Độ, Phương Thiện (thành phố Hà Giang) duy trì và phát triển thành sản phẩm hàng hóa.
Lưu truyền trong dân gian và tưởng như bị thất truyền vì sự xuất hiện của các phương thức chế biến, bảo quản chè mới hiện đại hơn; nhưng chè ống lam vẫn đang được nhiều người làm chè phát triển và quảng bá ra trị trường, góp phần tạo ra sự đa dạng về sản phẩm, giúp chè Shan tuyết Hà Giang vươn xa.
Theo Trọng Toan (Báo Hà Giang)
Hồi sinh loại cây đặc sản vừa cay vừa ngọt, cứ bóc vỏ là có tiền Từ những cây quế quỳ tự nhiên, sau bao nhiêu thăng trầm cùng thời gian, đến nay nguồn giống trội của loại cây đặc biệt này ngày càng bị kiệt quệ. Để xây dựng các rừng giống, vườn giống có chất lượng, các nhà nghiên cứu đã dày công điều tra, thống kê và chọn được 10 cây giống vượt trội trong vườn...