Sẽ đến ngày VN có hàng vạn Isaac Newton
Làm khoa học là cả một chặng đường dài. Đừng sốt ruột bởi thành quả khoa học có khi cần hàng thế kỉ để đơm hoa kết trái. Hãy cứ đặt niềm tin rồi biết đâu đấy, một ngày trời đẹp, hàng vạn quả táo không biết từ đâu bất chợt đồ về, rơi nhầm vào ngần ấy TS của chúng ta. Khi ấy thì cơ man nào là Newton made in Việt Nam đấy nhé.
Phản hồi của bạn đọc về bài “Đừng dại nghi ngờ nhà khoa học xứ ta” cho thấy các nhà khoa học, nhất là khoa học xã hội xứng đáng được lắng nghe hơn, thấu hiểu hơn. Điều đó khiến tác giả phải viết thêm bài này, coi như nói đi thì phải nói lại, nhìn mọi thứ thì phải “biện chứng” và “duy vật”, ngõ hầu tìm kiếm một sự công tâm…
Theo thống kê của Bộ GD-ĐT, đến cuối 2013, cả nước có khoảng 24.300 TS nhưng chỉ có 633 TS trực tiếp giảng dạy tại các trường CĐ, 8.519 là các giảng viên ĐH. Nhiều bài viết đã đặt câu hỏi, vậy 15.000 tiến sĩ còn lại đang ở đâu?
Ở nước ta, có 2 trung tâm nghiên cứu KH lớn là Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (VASS) và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST). Đáng tiếc là người viết không có con số chính xác số TS ở mỗi đơn vị này là bao nhiêu nhưng nếu phải đưa ra một con số ước tính thì có lẽ không quá 3.000 (căn cứ theo ước tính 50% số cán bộ có trình độ TS, Ths của VAST). Nếu tính toán một cách rộng rãi, cứ cho khoảng 2.000 TS khác đang công tác tại những Viện nghiên cứu trực thuộc các Bộ trực thuộc CP hoặc đã nghỉ hưu, vẫn còn lại khoảng 10.000 TS đang không trực tiếp hoặc thường xuyên làm nghiên cứu khoa học.
Khó lòng mà thuyết phục nếu đưa ra giả định 10.000 vị này đang thất nghiệp, không làm trong một cơ quan nhà nước nào bởi đã có ước tính rằng, nếu tính từ hàm Thứ trưởng trở lên, số người có trình độ TS ở nước ta cao gấp 5 lần so với Nhật Bản.
Con số này hẳn sẽ cao hơn nhiều nếu tính từ cấp huyện, tỉnh. Hà Nội đã từng soạn một dự án hoài bão, phấn đấu 100% cán bộ khối chính quyền thuộc diện Thành ủy quản lí có trình độ TS. Sau gần 20 làm việc, tác giả bài viết có điều kiện đi công tác hầu hết các tỉnh trong cả nước và nhận thấy số cán bộ ban ngành ở địa phương có trình độ TS gia tăng nhanh chóng. Chỉ cần đến thăm vài cơ sở đào tạo sau ĐH ở Hà Nội, bạn sẽ ngạc nhiên về số NCS là cán bộ trong các cơ quan công quyền ở địa phương theo học.
Ảnh: Dân trí
Ảnh: Dân trí
Đừng cuống lên!
Nếu lấy số công trình in trên tạp chí quốc tế hàng năm trung bình là khoảng 880 ấn phẩm chia đều cho khoảng 24.000 TS, bạn có thể sẽ bị quy kết là suy luận kém hợp lí. Là bởi có đến non nửa số TS không làm khoa học và sẽ bất công nếu kì vọng họ phải công bố công trình đều đặn. Bạn có thể sẽ bị quy kết là phủ nhận công sức của chừng ấy trí thức, những người đang miệt mài làm việc trong các cơ quan quản lí nhà nước, từng ngày từng giờ vẽ ra bao điều lớn lao vượt tầm thời đại, chứ đâu phải nhỏ nhoi một bài tạp chí, một công trình nghiên cứu hay một sáng chế tầm thường.
Video đang HOT
Bạn có thể bị cho là ấu trĩ nếu cứ đồng nhất TS là phải làm nghiên cứu KH hay giảng dạy như thông lệ thế giới. Có hại gì đâu khi cán bộ quản lí ban ngành có học vị cao nhất trong hệ thống? Chẳng phải sẽ dễ dàng, thuyết phục hơn khi họ thẩm định các công trình của những TS khác? Là tấm gương cho người người đi học lên cao?
Bạn có thể sẽ bị cho là máy móc nếu cứ nhất thiết coi TS là phải có công trình KH mà nhất là phải xuất bản trên những tạp chí quốc tế. Làm gì phải to lớn thế, chả nhẽ việc chủ trì bao nhiêu đề tài KH cấp nhà nước, cấp bộ, cấp viện không có ý nghĩa gì? Việc ngồi bao nhiêu hội đồng chấm luận án, luận văn không phải là đóng góp? Rõ ràng rồi nhé. Đừng hỏi việc ứng dụng các đề tài ấy đến đâu, chất lượng những luận án ra sao vì nó là việc của người khác!
Bạn có thể sẽ bị coi là hẹp hòi, soi mói, đố kị khi cứ nhất thiết đỏi hòi mỗi TS phải chuyên sâu một vấn đề ở tầm chuyên gia. Đừng nghiên cứu hôn nhân mà bỏ qua gia đình, đừng nghiên cứu văn hóa mà sao nhãng bảo tồn, đừng nói về phong tục mà lơ là tập quán hay đừng kết luận mà thiếu đi khuyến nghị. Ngần ấy vấn đề phải giải quyết, mà quy chế của bộ thì chỉ có 150 trang với cơ man đề mục bắt buộc, sâu thì sâu đến đâu?!
Phải “liệu cơm gắp mắm”!
Đầu tư cho KH của Hàn Quốc là 4,5% GDP. Con số này ở Trung Quốc là 2,2% Singapore 2,3% Thái Lan 0,25% trong khi ở Việt Nam mới khoảng 0,5%.
Sự chênh lệch quá lớn. Nguyên Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân từng nói “Hàn Quốc, một quốc gia 48 triệu dân nhưng đầu tư khoa học là 53 tỷ USD mỗi năm, số tiền họ đầu tư còn lớn hơn cả số dân. Còn Việt Nam hơn 80 triệu dân, số tiền đầu tư chỉ là 1 tỷ USD. Như vậy, cường độ Hàn Quốc đầu tư 2 năm bằng chúng ta đầu tư cả trăm năm”. Đấy là chưa kể sự tham gia đầu tư hùng hậu của khối DNNN.
Hẳn bạn sẽ hoài nghi nếu biết lương thực tế của các nhà KH vì nó chả “khoa học” cho lắm. Như tôi,, sau 15 năm công tác, ở ngạch nghiên cứu viên chính, có phụ cấp trách nhiệm mà hàng tháng số tiền lương được nhận chỉ tròm trèm 5 triệu.
Thu nhập chừng ấy, đừng kì vọng, đừng đi mà so bì với người ta đấy nhé. Đành rằng hầu hết các nhà KH ở viện nghiên cứu chẳng bao giờ làm việc 8h một ngày, 5 ngày một tuần, đành rằng khá nhiều trong số họ dành thời gian đi làm thêm ở bên ngoài, đành rằng số lương ít ỏi đó gần như tự động trả ngay cả khi có nhà khoa học 10 năm liền chả viết lách gì, lưa thưa lên cơ quan độ chục giờ trong… một tháng. Phải nói rõ là khoản lương đó chưa phải là tổng thu nhập bởi có nhiều loại đề tài (cơ sở, bộ, nhà nước…) khác được cấp kinh phí thường niên, dẫu chưa nhiều nhưng con số vẫn là giấc mơ.
Nếu bạn cần con số thì con số đấy! Đừng hỏi vì sao hàng chục năm, 1 TS của ta mới có một công trình quốc tế. Chẳng phải vật chất quyết định ý thức đó sao? Đừng hỏi tại sao Indonesia hay Phillipine đầu tư cho khoa học ít hơn ta, có số tiến sĩ ít hơn ta mà lại có nhiều công trình hơn! Có thể đâu đó năm châu bốn biển có vài chục nước như thế, cũng không tính bởi đó là ngoại lệ. Mà dù có là như thế, đố bạn tìm thấy ở đâu nỗ lực tổ chức hội thảo, tọa đàm, thông báo như ở nước mình nhé. Có không ít viện nghiên cứu chả từng tổng kết, mỗi năm tổ chức gần trăm hội thảo, trình bày, diễn thuyết. Nghe có nể không?
Người ta khác, mình khác. Mình còn khó khăn, các luận án TS phải giải quyết bao nhiêu là vấn đề thực tiễn trước mắt, chưa có điều kiện để giải quyết những vấn đề quốc tế quan tâm. Nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Bành Tiến Long chả từng sốc với những luận án tập trung vào: “Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh” hay “Tắm giặt cho chiến sỹ miền núi”. Đừng phủ nhận nỗ lực sáng tạo chia sẻ thông tin cho các trí thức tương lai trong nước khi có cả chợ luận văn, luận án trên mạng, sẵn sàng bán cho bạn với giá rất phải chăng. Đừng chỉ thấy rặt toàn tiêu cực ở các “lò” cung ứng chứng chỉ tin học, bằng ngoại ngữ nằm trên con phố ven Bộ Giáo dục, mang tên một nhà khoa học tài danh.
Đừng nhìn vào con số nữa!
Những con số bao giờ cũng khô cứng và không có linh hồn, bạn không nên mải mê nhìn vào chúng. Hãy cứ tự hào số lượng TS sĩ của chúng ta đứng hàng đầu trong khu vực, nhất là khi chúng ta còn nghèo khó.
Làm khoa học là cả một chặng đường dài. Đừng sốt ruột bởi thành quả khoa học có khi cần hàng thế kỉ để đơm hoa kết trái. Hãy cứ đặt niềm tin rồi biết đâu đấy, một ngày trời đẹp, hàng vạn quả táo không biết từ đâu bất chợt đồ về, rơi nhầm vào ngần ấy TS của chúng ta. Khi ấy thì cơ man nào là Newton made in Việt Nam đấy nhé.
Nguyễn Công Thảo
Theo_VietNamNet
Đừng dại nghi ngờ nhà khoa học xứ ta
Đừng bao giờ dại dột nghi ngờ thành quả lao động của các nhà khoa học ở ta hiện nay, bởi bạn sẽ phải im lặng trước hàng chồng bằng khen lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, sáng tạo khoa học...
Tháp ngà xưa...
Xin được giải thích ngay, tháp ngà ở đây là cách nói ẩn dụ, ngầm chỉ các viện nghiên cứu khoa học hàn lâm. Đã từng có thời kì, lối ẩn dụ này phổ biến ở nhiều nước bao gồm cả các nước phương Tây. Trong trí tưởng tượng của không ít người, đây là nơi làm việc của những nhà khoa học uyên bác, thông làu ĐôngTây, Kim-Cổ. Vì thế, họ thường là những người cao tuổi, thâm trầm, cả ngày miệt mài bên những chồng sách cũ kĩ, nhìn thế giới qua gọng kính cận dày cộp, nặng nề trên khuôn mặt nhàu nhĩ, khắc khổ, bị che bởi lưa thưa đâu đó vài sợi tóc bạc còn sót lại.
Họ thường là những kẻ "khác người", "kì dị" từ cách ăn mặc đến hành vi. Ngôn ngữ họ nói như đến từ hành tình khác và thế giới thực tại dường như là quá xa lạ. Họ đã từng là cảm hứng cho không ít đạo diễn điện ảnh trong việc xây dựng nên những nam nhân vật "sợ" phụ nữ, "ngại" kết hôn, đầu tóc rối bù, quần áo luộm thuộm, đêm ngày trong phòng thí nghiệm với thực đơn chung thân là bánh mì hay mì tôm. Họ dường như đến từ thế giới khác, công việc của họ dường như kì bí và kết quả nghiên cứu thì người thường không bao giờ có thể hiểu được.
... nay
Những "phẩm chất" trên không hẳn là mô tả chính xác về các nhà khoa học trước đây. Nó có thể là kết quả của sự định kiến, việc khái quát hóa qua một vài trường hợp cá biệt. Không biết trong lòng công chúng, những định kiến ấy có còn không và còn ở mức độ nào, chỉ biết rằng, qua trải nghiệm thực tế của tác giả bài viết ở một trung tâm khoa học đầu não của cả nước, thì dường như đã có một sự thay đổi lớn.
Các viện nghiên cứu ở đây không còn là những "tháp ngà" âm u, rêu phong tường rủ. Hầu hết trụ sở các cơ quan mà tôi được biết đều nằm ở vị trí đắc địa, nơi hẳn nhiều doanh nghiệp thèm thuồng, nơi các nhà đầu tư bất động sản định danh là "đất vàng". Đó đã bắt đầu là những tòa nhà cao tầng mang dáng vẻ của khách sạn 3 sao và nếu bước vào trong, bạn sẽ thấy một thế giới hiện đại chả kém là bao so với dòng chảy đang tấp nập ở bên ngoài. Cũng điều hòa mát đến tận từng ngóc ngách, cũng máy lau giày sành điệu bên những chiếc thang máy hàng hiệu. Máy tính bàn được trang bị cho từng nhà khoa học với đủ cả máy in, điện thoại, máy fax còn wifi thì phủ sóng ngang cùng ngõ hèm, nét căng.
Ảnh minh họa
Phần lớn các nhà khoa học mà tôi biết hiện nay còn trẻ, thậm chí là rất trẻ. Hầu như chưa ai có tóc bạc. Họ không hệ lập dị, cổ quái, mà đời, rất đời là khác. Bạn sẽ không có cơ hội phê phán trang phục của họ vì chúng chẳng bao giờ nhàu nhĩ, u ám. Bạn sẽ thấy cả một thế giới thời trang với nhiều trường phái khi nhìn vào cách họ ăn mặc. Không hề cắp ô đi làm mà trái lại họ cắp laptop, cắp iphone, ipad. Đố bạn tìm thấy bóng dáng chiếc xe đạp cà tàng nào trong bãi gửi xe nơi mà những con "giấc mơ" ngày xưa giờ phải tủi phận nằm im bên bao nàng tay ga thời thượng.
Đố bạn tìm thấy ai trong họ chưa có bằng đại học. Tiến sĩ, thạc sĩ là lẽ tất nhiên và bạn đừng có sửng sốt khi được giới thiệu với một tiến sĩ nào đó, người mà phải vài mùa xuân nữa mới tròn...30 tuổi. Nếu có lòng tự trọng cao, hẳn bạn sẽ xấu hổ khi nhìn vào hồ sơ của họ. Một cơ man là bằng, là chứng chỉ, là bằng khen, là danh hiệu. Quên tiếng Anh đi bởi ngay cả các chị lao công cơ quan họ cũng sẵn sàng "hello", "thank you, how are you" với bạn và tin học ư, bạn đã bao giờ ngồi kiên trì "chém gió", "chơi game", "lướt báo", "shopping" trên mạng được 8 tiếng một ngày, 5 ngày một tuần trong liền tù tì hàng chục năm không? Đừng bao giờ dại dột nghi ngờ thành quả lao động khoa học của họ bởi bạn sẽ phải im lặng trước hàng chồng bằng khen lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, sáng tạo khoa học...
Và những con số biết nói...
Việt Nam hiện nay có xấp xỉ 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ. Con số này không ngừng gia tăng bởi chúng ta đã, đang và chắc chắn còn có thêm nhiều dự án, chương trình đạo tạo thạc sĩ, tiến sĩ. Theo thống kê Viện thông tin khoa học (ISI), từ năm 1996 đến 2011, cả nước có 13.172 ấn phẩm khoa học công bố trên các tập san quốc tế có bình duyệt. Điều đó có nghĩa mỗi năm chúng ta có khoảng 880 công trình xuất bản quốc tế và bình quân phải mất vài chục năm, mỗi tiến sĩ của ta mới sản xuất được một bài báo cho quốc tế.
Những con số thường khô cứng lắm, tương đối lắm, dễ gây tranh luận và phân trần. Vì thế, để hiểu thêm cần so sánh chúng với những con số khác. Cũng nguồn thống kê trên, trong cùng khoảng thời gian ấy, số ấn phẩm khoa học của cả nước chưa bằng 1/5 số công bố của trường ĐH Tokyo (69,806 ấn phẩm) và một nửa của trường ĐH quốc gia Singapore (28,070 ấn phẩm). Nếu ai đó bảo rằng thật bất công khi so sánh một nước nghèo như Việt Nam với các nước giàu có như Nhật Bản và Singapore, thì xin hãy nhìn sang các nước láng giềng. Số công trình xuất bản của hơn 24.000 tiến sĩ của chúng ta chỉ bằng khoảng 1/5 của Thái Lan (69.637), 1/5 của Malaysia (75.530), và 1/10 của Singapore (126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam gấp 17 lần Singapore, 3 lần Malaysia và gần gấp rưỡi Thái lan.
Nếu những con số kia vẫn chưa gợi lên cho bạn điều gì, xin kể thêm một câu chuyện có thật. Khoảng giữa năm 1998, tập san khoa học số 1 trên thế giới Science có một loạt bài điểm qua tình hình khoa học ở các nước châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Trong loạt bài này, ngạc nhiên thay (hay không đáng ngạc nhiên thay),không có đến một chữ nào nói về khoa học ở Việt Nam. Thậm chí, hai chữ "Việt Nam" cũng không được nhắc đến.
Năm 2002, Chính phủ phê duyệt "Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020" với mục tiêu đến 2010, phải đáp ứng 40% -50% nhu cầu cơ khí cả nước, xuất khẩu đạt 30% giá trị sản lượng. Tuy nhiên, phần lớn các mục tiêu đề ra đều không đạt được. Thậm chí, có ngành còn tụt hậu hơn thời bao cấp. Về cơ bản, chúng ta xuất khẩu cho thế giới nguyên liệu thô, những mặt hàng đòi hỏi cơ bắp trong khi nhập về các sản phẩm mang hàm lượng chất xám cao.
Những con số trên không biết có đủ cho ta đưa ra liên tưởng gì đó về sự đóng góp của khoa học cho sự phát triển của nước nhà? Câu hỏi này có lẽ xin được gửi cho các nhà khoa học (trong đó có tôi) để tiếp tục tranh luận, trao đổi.
Nguyễn Công Thảo
Theo_VietNamNet
Bộ Giáo dục xin rút thảo luận "đề án tỷ đô" Ngày 25/4, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận đã xin rút nội dung thảo luận về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông ra khỏi chương trình làm việc của Quốc hội. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhận trách nhiệm về "đề án tỷ đô" Theo Bộ trưởng Phạm Vũ Luận,...