Sau khi nhà Thanh sụp đổ, hoàng tộc Ái Tân Giác La đã đi đâu?
Sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, hóa ra hoàng tộc Ái Tân Giác La không bị tận diệt. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ 21, những thông tin về gia tộc quyền quý này mới dần được hé mở.
Nhà Thanh chính là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc. Triều đại kéo dài gần 300 năm này do Ái Tân Giác La, một dòng họ Mãn Châu thống trị.
Dòng họ Ái Tân Giác La thống trị triều đại nhà Thanh gần 300 năm.
Theo thống kê điều tra dân số, Mãn Châu là một trong những dân tộc thiểu số đông dân nhất ở Trung Quốc, với 10,38 triệu người, chỉ sau dân tộc Choang và Hồi. Người Mãn Châu chủ yếu tập trung sinh sống nhiều nhất ở Liêu Ninh và Hà Bắc (Trung Quốc).
Vậy, sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ năm 1912 với vị hoàng đế cuối cùng là Phổ Nghi, những người được cho là hậu duệ của gia tộc Ái Tân Giác La đã đi đâu?
Trong tiếng Mãn Châu, từ “Ái Tân” có nghĩa là vàng. Đây có thể là nguyên nhân một số hậu duệ của nhà Thanh sau đó đổi thành họ Kim.
Một số học giả ước tính rằng, vào thời Tuyên Thống (niên hiệu của Phổ Nghi khi là hoàng đế Đại Thanh), tổng số thành viên của gia tộc Ái Tân Giác La không dưới 400.000 người.
Vậy, hơn 100 năm sau khi nhà Thanh sụp đổ, vì sao hiện nay có rất ít người mang họ Ái Tân Giác La? Hậu duệ của gia tộc cao quý này đã đi đâu?
Trước khi sụp đổ, triều đại nhà Thanh từng có giai đoạn phát triển cực thịnh, sử gọi là Khang Càn thịnh thế.
Trên thực tế, sau khi triều đại nhà Thanh sụp đổ, do lo sợ gặp rắc rối, đồng thời để hòa nhập với thời đại mới, nhiều thành viên của gia tộc Ái Tân Giác La đã thay tên đổi họ và sống lưu lạc khắp nơi. Để giữ kín bí mật về gia thế danh gia vọng tộc, hầu hết con cháu của Ái Tân Giác La đều đổi thành họ Kim và họ Triệu. Một số ít thì đổi sang các họ khác của người Hán.
Tuy nhiên, đến thế kỷ 21, nhiều người thuộc hậu duệ của dòng họ Ái Tân Giác La đã bắt đầu đổi lại tên họ để chứng minh họ thuộc dòng dõi cao quý của nhà Thanh.
Video đang HOT
Phát hiện ngôi làng hậu duệ của dòng họ Ái Tân Giác La
Theo một cuộc khảo sát và nghiên cứu của Đại học Vân Nam về các làng dân tộc thiểu số của Trung Quốc vào năm 2003, cuối cùng các chuyên gia cũng tìm thấy một ngôi làng là nơi sinh sống tập trung của hậu duệ hoàng tộc nhà Thanh ở khu vực miền núi phía đông tỉnh Liêu Ninh.
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng những người dân ở ngôi làng này chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi đặc điểm di truyền và nghi thức truyền thống của hoàng tộc nhà Thanh. Cụ thể, nhóm nghiên cứu từ Đại học Vân Nam đã tiến hành thu thập các mẫu máu từ ngôi làng này và thành lập “ngân hàng gene” dân tộc thiểu số đầu tiên của Trung Quốc.
Hiện nay vẫn còn nhiều hậu duệ của hoàng tộc Ái Tân Giác La. Họ sinh sống tập trung trong những ngôi làng, khu vực nhất định và luôn cố gắng gìn giữ văn hóa, truyền thống của dòng họ cao quý.
Ngoại trừ các đặc điểm về di truyền, người trong ngôi làng này còn rất coi trọng đạo đức gia đình, lễ tiết gia phong.
Đương nhiên những người hậu duệ của họ Ái Tân Giác La này cũng rất coi trọng việc giáo dục văn hóa. Những đứa trẻ trong làng đều phải học ” Tam Tự Kinh” và ” Bách Gia Tính” ngay từ khi còn nhỏ.
Từ những phát hiện trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy các phong tục truyền thống của nhà Thanh vẫn được duy trì và gìn giữ tại ngôi làng này.
Theo những người dân trong làng kể lại, hậu duệ trực tiếp của hoàng tộc Ái Tân Giác La chủ yếu hiện sinh sống ở ba tỉnh Đông Bắc (Trung Quốc). Ngoại trừ các hoạt động nghi lễ quan trọng, hầu như không có sự tiếp xúc nhiều giữa các nhánh hậu duệ này.
Nhiều hậu duệ của dòng họ Ái Tân Giác La hiện đang sinh sống ở vùng Đông Bắc Trung Quốc.
Vùng Đông Bắc là “nơi khởi phát” của triều đại nhà Thanh, đồng thời là quê hương của người Mãn Châu. Do đó, sau khi nhà Thanh sụp đổ, khoảng 70.000 thành viên hoàng tộc Ái Tân Giác La đã trở về quê hương ở vùng Đông Bắc, thay tên đổi họ va trở thành dân thường. Từ hoàng thân quốc thích với hoàng đế, nhiều người họ Ái Tân Giác La đã trở thành nông dân, làm ruộng để kiếm sống.
Tuy nhiên, thực tế cũng có một số thành viên hoàng tộc của nhà Thanh lại lựa chọn di cư ra nước ngoài để có cuộc sống ổn định và giàu sang. Đơn cử như việc sau khi Phổ Nghi được người Nhật ủng hộ trở thành Hoàng đế của Đại Mãn Châu Đế quốc, những người họ hàng thân thích đã lợi dụng mối quan hệ để cùng gia đình di cư sang Nhật Bản. Những người giàu có hơn thì chọn di cư sang Mỹ và một số nước châu Âu.
Thời nhà Thanh có hình phạt kỳ lạ chỉ bắt ăn 2 bát mỳ: Vì sao phạm nhân thà chết không ăn?
Sự thật về hình phạt ăn 2 bát mỳ hóa ra đáng sợ đến nỗi phạm nhân thà bị chém đầu cũng không ăn.
Vào thời phong kiến, có nhiều hình phạt tra tấn được áp dụng nhằm mục đích chính là để lấy lời khai. Đơn cử như thập đại cực hình (hay 10 hình thức tra tấn) được sử dụng trong thời nhà Thanh. Cụ thể, 10 hình thức tra tấn này được đánh giá là những hình phạt nặng nhất và vô cùng tàn khốc. Trong đó có thể kể đến như hình phạt lột da, ngũ mã phanh thây, lăng trì, chém eo,...
Vào thời nhà Thanh, có 10 loại cực hình đáng sợ nhất.
Điểm chung của những hình phạt này đều khiến cho tội phạm sống không bằng chết. Do đó, phần lớn các phạm nhân khi nghe thấy những hình phạt tra tấn trên đều vô cùng sợ hãi, có người còn lập tức nhận tội.
Xử chém đầu đôi khi còn là cái chết nhẹ hơn nhiều so với những hình phạt tra tấn trên, đặc biệt là phạt lăng trì. Hình phạt này được thực hiện rất đáng sợ, khiến phạm nhân chỉ muốn chết cho xong vì vô cùng đau đớn.
Nhiều hình phạt tra tấn rất dã man khiến phạm nhân sống không bằng chết.
Tần Thủy Hoàng đánh bại 6 nước chư hầu, sử gia nhà Hán tiết lộ: "Tiên đoán" đã có từ lâu
Chẳng hạn, Khang Tiểu Bát, người cuối cùng bị xử lăng trì trong lịch sử Trung Quốc, là một minh chứng. Theo đó, Khang Tiểu Bát là một tên thổ phỉ khét tiếng hoành hành khắp vùng Bắc Kinh - Thiên Tân. Hắn không những cướp tiền của triều đình mà lời lẽ còn rất ngông cuồng. Sau khi bị bắt về quy án và bị thẩm vấn, Khang Tiểu Bát còn đòi "làm nhục" Từ Hi Thái hậu.
Tin tức này đã nhanh chóng truyền đến tai của Từ Hi Thái hậu. Bà lập tức hạ lệnh lăng trì Khang Tiểu Bát cho đến chết và đặc biệt là không hạn chế về số đao.
Trên thực tế, theo luật của nhà Thanh, phạm nhân bị xử lăng trì thì nhiều nhất cũng chỉ 3.600 đao. Tuy nhiên, vào năm 1905, Khang Tiểu Bát bị xử lăng trì tới 3784 đao cho đến chết.
Hình phạt chỉ ăn 2 bát mỳ đáng sợ thế nào?
Phạm nhân bị bỏ đói nhiều ngày trước khi thực hiện hình phạt ăn 2 bát mỳ.
Bên cạnh thập đại cực hình trên, các ghi chép lịch sử còn chỉ là một hình thức tra tấn đáng sợ khiến phạm nhân nửa sống nửa chết. Đó là hình thức tra tấn có tên là " Nhị long thổ tu" - "Nôn ra râu rồng". Hình phạt này có yêu cầu là phạm nhân phải ăn 2 bát mỳ.
Thoạt đầu mới nghe ai cũng cho rằng đây là hình phạt đơn giản, nhẹ nhàng, nhưng thực chất quy trình thực hiện và kết quả lại không như vậy.
Ban đầu, phạm nhân sẽ không bị đánh đập, nhưng lại không được cho ăn. Thay vào đó, họ chỉ được uống một ít nước để duy trì chút sự sống. Sau khi bị bỏ đói ít nhất từ 2 - 3 ngày, cơ thể của phạm nhân rơi vào tình trạng suy sụp, đói không chịu nổi, đầu óc mê man.
Đúng lúc này, cai ngục mang ra 2 bát mỳ nóng hổi thơm ngon tới. Phạm nhân lúc này được thả ra lập tức lao tới chỗ 2 bát mỳ mà ăn ngấu nghiến vì quá đói. Tuy nhiên, 2 bát mỳ này chưa được nấu chín hẳn nên rất khó tiêu hóa, gây khó chịu cho dạ dày, đặc biệt là với người bị bỏ đói nhiều ngày.
Phạm nhân bị treo ngược lên khi đang ăn mỳ khiến họ nhanh chóng bị sặc, mỳ tuôn ra từ mũi và miệng.
Khi phạm nhân đang ăn dở hai bát mỳ thì cai ngục tới treo ngược lên khung, đồng thời trói tay chân và đặt thẳng đứng xuống. Chẳng mấy chốc, mặt của phạm nhân sẽ sưng và tím tái lên, bụng khó chịu, lượng mỳ ở trong dạ dày cũng nhanh chóng tìm đường ra ngoài thông qua khoang mũi hoặc miệng.
Với hình phạt này, thậm chí cả khi những sợi mỳ mà phạm nhân ăn may mắn có thể được tiêu hóa trong dạ dày, khó có thể trào ra khỏi miệng thì chúng vẫn có thể bị sặc trong khoang mũi. Điều này khiến phạm nhân cực kỳ khó chịu, cảm thấy ngạt thở, mặt tím tái. Do mỳ thường được tuôn ra ở mũi nên hình thức tra tấn này mới được gọi là "Nhị long thổ tu" - "Nôn ra râu rồng".
Bị treo ngược xuống dưới sau khi ăn mỳ khiến phạm nhân bị sặc mỳ, khó thở đến mức chỉ muốn chết là xong. Chính vì vậy, rất ít người có thể sống sót khỏi hình phạt tra tấn này.
Vị hoàng đế có kết cục bi thảm nhất lịch sử Trung Quốc, bị xử tử với hơn 1.000 nhát dao Hồng Thiên Quý Phúc dù đã quỳ gối cầu xin nhà Thanh, nhưng vẫn không đổi lại được sự sống, phải nhận án tử hình, thậm chí còn là án tử hình nặng nhất - lăng trì. Trong lịch sử Trung Quốc, hình phạt lăng trì (tùng xẻo) thường dùng để xử tử những người nổi loạn hoặc phạm tội rất nặng. Đây...