Sau 10 năm thực hiện, diện tích đạt chứng nhận VietGAP còn khiêm tốn
Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) cho rau quả tươi, chè, chăn nuôi lợn, gia cầm, bò sữa và ong an toàn do Bộ NNPTNT ban hành đã đi vào cuộc sống 10 năm. Nhưng cho đến nay, số diện tích canh tác đạt được chứng nhận VietGAP vẫn còn khiêm tốn.
Diện tích còn khiêm tốn
Theo thống kê chưa đầy đủ của các tổ chức chứng nhận VietGAP, tính đến hết năm 2017, đã có 1.406 cơ sở trồng trọt được chứng nhận VietGAP với diện tích khoảng hơn 18.200ha (trong đó rau hơn 3.443ha/937.300ha, quả 11.813ha/923.900ha, chè 1.864ha/129.300ha, cà phê 100ha và lúa hơn 979,42ha; khoảng 500 cơ sở nuôi thủy sản với diện tích 2.618ha được cấp chứng nhận VietGAP và tương đương; trên 26.000 hộ chăn nuôi và trên 300 trang trại chăn nuôi được chứng nhận VietGAHP (chiếm 1,4% tổng số trang trại).
Diện tích trồng trọt đạt tiêu chuẩn VietGAP còn khiêm tốn. Ảnh: K.N
Điều đáng ghi nhận là, diện tích được chứng nhận VietGAP trong trồng trọt tăng nhanh trong thời gian gần đây. Đến hết năm 2018 đã có gần 1.900 cơ sở trồng trọt có giấy chứng nhận VietGAP với diện tích 81.500ha, tăng gần 500 cơ sở (63.300ha) so với năm 2017.
Theo TS Đào Thế Anh – Phó Giám đốc Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, mặc dù chưa được công nhận nhiều trên thị trường thế giới nhưng VietGAP vẫn có một vai trò nhất định trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. “Đây không chỉ là bộ tiêu chuẩn quốc gia dành riêng cho sản phẩm trong nước, mà còn là tiêu chuẩn để đánh giá cho các sản phẩm nông, thủy sản nước ngoài muốn nhập khẩu vào Việt Nam, đồng thời làm thay đổi tập quán, thói quen, cách thức quản lý sản xuất, xây dựng thương hiệu sản phẩm và tạo thị trường tiêu thụ ổn định cho người sản xuất; tạo nguồn nguyên liệu đảm bảo chất lượng cho công nghiệp chế biến” – ông Thế Anh nói.
Tuy nhiên, hiện nay, diện tích sản xuất đạt tiêu chuẩn VietGAP ở nhiều địa phương còn khiêm tốn, nguyên nhân là do nông dân vẫn chủ yếu sản xuất nhỏ, làm theo thói quen, có tâm lý ngại tuân thủ theo quy định, tiêu chuẩn; ngại áp dụng phương pháp mới. Vì vậy, nông dân thường không tự nguyện, chủ động áp dụng VietGAP mà trông chờ vào hỗ trợ của các chương trình, dự án, doanh nghiệp… khi hết tài trợ thì cũng là lúc ngừng gia hạn. Đó là chưa kể, người tiêu dùng chưa tin tưởng ở VietGAP và hệ thống chứng nhận VietGAP để sẵn sàng trả giá cao hơn.
Hình thành cơ chế thị trường cho GAP
Video đang HOT
Theo TS Đào Thế Anh, để VietGAP được áp dụng rộng rãi, phải biến GAP là các tiêu chuẩn tự nguyện đối với người sản xuất nhưng cần trở thành một nhu cầu đối với người tiêu dùng về sản phẩm an toàn, có như vậy mới hình thành cơ chế thị trường đối với GAP, không phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước.
Công tác truyền thông và đào tạo về GAP đối với hộ nông dân HTX, doanh nghiệp và cả người tiêu dùng là rất quan trọng. Bộ NNPTNT cần phối hợp với các địa phương, đoàn thể tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức của xã hội về an toàn thực phẩm nói chung và VietGAP nói riêng. Cần thúc đẩy xây dựng và nhân rộng mô hình liên kết theo chuỗi giá trị áp dụng GAP với sự tham gia của doanh nghiệp, HTX, hội nghề nghiệp đại diện cho nông dân sản xuất nhỏ để đảm bảo chuỗi thực phẩm an toàn.
Tăng cường công tác thanh tra, giám sát các đơn vị đã được chứng nhận cũng như toàn bộ quy trình chứng nhận VietGAP do tổ chức chứng nhận thực hiện và xử phạt tổ chức, cá nhân làm ăn gian dối, nhất là đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào các chuỗi giá trị sản phẩm để xuất khẩu bởi khi có một lô hàng nào bị đánh giá không đạt bởi nước nhập khẩu thì tỷ lệ doanh nghiệp bị kiểm tra sẽ tăng lên tới 50%, thậm chí 100% (thay vì bình thường chỉ là 5%).
Cần tăng cường tổ chức kiểm tra giám sát chặt chẽ từ sản xuất, lưu thông phân phối trên thị trường để tất cả tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất rau và các nông sản khác đều phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn quy định của Nhà nước, bất kể các chủ thể này là nông hộ nhỏ lẻ hay cơ sở kinh doanh.
Theo Danviet
Trung Quốc giải phóng lượng tồn khổng lồ, ngành gạo chịu áp lực lớn
Việc Trung Quốc tung ra lượng gạo lớn để giải phóng lượng tồn kho khổng lồ đã khiến những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới như Thái Lan, Việt Nam chịu sức ép lớn.
Trung Quốc bung hàng
Theo hãng tin Reuters, Thái Lan - nhà xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Ấn Độ, đã xuất khẩu 4,2 triệu tấn gạo trong 6 tháng đầu năm 2019, với đơn đặt hàng trong hai tháng 5 và 6 giảm còn 600.000 tấn/tháng. Khối lượng này dưới mức trung bình tháng là 800.000 tấn.
Thái Lan đang gặp khó khăn trong việc xuất khẩu gạo. Ông Chookiat Ophaswongse - Chủ tịch danh dự Hiệp hội Các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan cho hay, đầu năm nay, Hiệp hội đặt mục tiêu xuất khẩu 9,5 triệu tấn gạo, giảm từ mức 11 triệu tấn trong năm 2018. Tuy nhiên, hiện tại để đạt được 9 triệu tấn gạo xuất khẩu cũng là một điều khó khăn do những khoảng cách về giá.
Bốc xếp gạo xuống tàu để xuất khẩu tại Cảng Sài Gòn. Ảnh: T.L
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng không mấy sáng sủa khi khối lượng gạo xuất khẩu tháng 6 năm 2019 ước đạt 625.000 tấn với giá trị đạt 275 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 6 tháng đầu năm ước đạt 3,39 triệu tấn và 1,46 tỷ USD, giảm 2,8% về khối lượng và giảm 19% về giá trị so với cùng kì năm 2018.
Việc Trung Quốc tung ra thị trường lượng gạo tồn kho khổng lồ với ước tính khối lượng lên đến 200 triệu tấn đã khiến xuất khẩu gạo của Thái Lan và Việt Nam gặp khó.
Ông Chookiat thừa nhận, Thái Lan đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ Trung Quốc khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đẩy lượng tồn kho khổng lồ ra thị trường. "Thương mại của Trung Quốc với hai đối tác lớn Thái Lan và Việt Nam đã chậm lại trong năm nay vì lượng dự trữ quốc gia lớn, và họ đã bán lượng tồn gạo cũ sang các thị trường châu Phi, vốn bị Thái Lan chi phối" - ông Chookiat chia sẻ.
"Trung Quốc hạn chế mua gạo trong năm nay, Việt Nam có một lượng gạo lớn để cạnh tranh với chúng tôi trên mọi thị trường. Cùng với đó, Trung Quốc đang chiếm lấy thị trường châu Phi của chúng tôi" - ông Chookiat nói thêm.
Trong khi giá trị xuất khẩu gạo của Thái Lan sang Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm giảm 45% so với cùng kỳ năm ngoái thì Trung Quốc cũng bật khỏi danh sách những thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam. Theo Tổng cục Hải quan, 6 tháng đầu năm 2019, Trung Quốc nhập từ Việt Nam 289.000 tấn gạo, giảm khoảng 75% so với cùng kỳ năm 2018.
Chú trọng nâng cao chất lượng
Sự khó khăn ở thị trường Trung Quốc đã buộc các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phải chuyển hướng sang những thị trường khác. Theo Bộ Công Thương, trong tháng 6, nhiều doanh nghiệp đã nhanh nhạy nắm bắt sự thay đổi về chính sách nhập khẩu gạo của Chính phủ Philippines. Nhờ mở rộng được thị trường này, nên dù lượng gạo xuất khẩu giảm nhưng không giảm mạnh như một số nước khác.
Bộ Công Thương cũng cho biết, từ khi Nghị định 107 được ban hành (ngày 15/8/2018) đến nay đã có thêm 41 thương nhân được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo, nâng đội ngũ thương nhân xuất khẩu gạo lên 177. Nhiều thương nhân được cấp mới tuy có quy mô không lớn nhưng chú trọng khai thác các thị trường mới, thị trường ngách.
Dù vậy, những khó khăn của ngành chế biến, xuất khẩu gạo vẫn còn ở phía trước. Theo ông Lê Minh Đức - Giám đốc Sở Công Thương tỉnh Long An, khó khăn hiện nay trong xuất khẩu gạo và tiêu thụ lúa trong nước là cung nhiều hơn cầu.
Nhiều ý kiến cho rằng, Bộ NNPTNT và các địa phương phải ngồi lại tính toán để xem sản xuất lúa bao nhiêu là phù hợp. Diện tích đất lúa cần 3,8 triệu ha hay 2,5 triệu ha? Đồng thời cũng phải xem xét lại lịch thời vụ. Trước đây gieo sạ đồng loạt để hạn chế dịch bệnh, nay nên sắp xếp lịch thời vụ sao cho hợp lý, phù hợp thị trường.
Ông Phạm Thiện Nghĩa - Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, đặt vấn đề cần xem lại mặt hàng lúa gạo có còn là chiến lược xuất khẩu của quốc gia, khi mà kim ngạch xuất khẩu thua thủy sản và rau quả.
TS Đào Thế Anh - Phó Viện trưởng Viện Cây lương thực và cây thực phẩm (Bộ NNPTNT) cho rằng, chúng ta không nên vui mừng khi lọt thống kê top 10 quốc gia có sản lượng lúa gạo lớn nhất thế giới năm 2016 của tờ World Map, bởi mục tiêu lớn nhất của Việt Nam phải là làm thế nào để tăng được giá trị từ sản phẩm gạo.
Theo TS Đào Thế Anh, cách thức sản xuất và xuất khẩu gạo của chúng ta có thể nói đã quá "cổ lỗ sĩ", mô hình này đã được vận hành từ những năm 60 - 70 của thế kỷ trước, đến nay không còn phù hợp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vẫn còn tư duy sống dựa vào các thỏa thuận của Chính phủ để cứu đói, bảo vệ an ninh lương thực cho một số nước thiếu gạo.
"Nếu cứ trông chờ các hợp đồng của Chính phủ thì sẽ không thể làm được gạo chất lượng. Gạo Việt Nam xuất khẩu sang những thị trường yêu cầu chất lượng cao thường bị "chê" chất lượng thấp. Một thời gian dài chúng ta đã cố làm ra thật nhiều gạo, rồi không tiêu thụ hết đành "bán đổ, bán tháo", dẫn đến giá thấp là điều đương nhiên" - TS Anh thẳng thắn.
Theo Danviet
Thủ tướng dự Hội nghị Quân chính toàn quân Ngày 8-7, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã dự Hội nghị Quân chính toàn quân về kết quả công tác quân sự, quốc phòng sáu tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ sáu tháng cuối năm 2019. Theo báo cáo tại hội nghị, sáu tháng đầu năm, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển...