Sát thủ diệt ngầm nhanh nhất thế giới khiến Mỹ “khiếp vía”
Tàu ngầm tấn công hạt nhân siêu nhanh lớp Lyra của Liên Xô từng là nỗi khiếp sợ của hải quân phương Tây và Mỹ vì các vũ khí thời đó hoàn toàn không thể đánh trúng tàu ngầm “sát thủ” này.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra sở hữu nhiều tính năng vượt trội mà các tàu ngầm ngày nay vẫn chưa thể sánh bằng.
Theo National Interest, Chiến tranh Lạnh bắt đầu là lúc Liên Xô tụt hậu khá xa so với Mỹ về công nghệ tàu ngầm.
Mặc dù Liên Xô đã nắm trong tay nhiều loại tàu ngầm Đức sau Thế chiến 2 kết thúc, Mỹ vẫn đi trước nhờ kinh nghiệm và năng lực trong những trận hải chiến lịch sử ở Thái Bình Dương.
Kết hợp với ưu thế về công nghệ, Mỹ đạt bước tiến nhảy vọt về khả năng đóng tàu ngầm, đặc biệt là tàu ngầm hạt nhân, trong 2 thập kỷ đầu tiên của Chiến tranh Lạnh.
Những mẫu tàu ngầm hạt nhân Liên Xô đầu tiên phải đối mặt với thách thức lớn từ phương Tây bởi khả năng tàng hình và độ tin cậy chưa cao. Sau vài thiết kế mang lại kết quả, Liên Xô lựa chọn phát triển lĩnh vực mà tàu ngầm Mỹ chưa bao giờ đạt đến.
Điều đó có nghĩa là tàu ngầm phải di chuyển nhanh hơn, lặn sâu hơn các tàu ngầm phương Tây. Thiết kế tàu ngầm cũng phải nổi trội và tích hợp công nghệ cao.
Kết quả là tàu ngầm lớp Projet 705 Lyra (NATO định danh là Alfa), còn có biệt danh “Cá vàng”, ra đời. Đây là loại tàu ngầm hạt nhân với chức năng tấn công/săn ngầm của Liên Xô, được cục Thiết kế Malakhit ở Saint Petersburg nghiên cứu phát triển từ năm 1960 và bắt đầu đi vào phục vụ từ năm 1971.
Vỏ tàu được làm bằng hợp kim titanium để chịu được ma sát khi tàu đạt đến tốc độ hơn 80 km/giờ.
Theo chuyên gia Robert Farley, phó giáo sư tại Trường Ngoại giao và Thương mại quốc tế Patterson (Mỹ), sự xuất hiện của lớp tàu ngầm Lyra đã giúp Liên Xô đạt được đồng thời nhiều mục tiêu.
Thứ nhất, Liên Xô nắm trong tay loại vũ khí mạnh mẽ, đủ sức làm thay đổi cán cân quân sự ở Bắc Đại Tây Dương và Bắc Cực, thậm chí chấm dứt sự thống trị của hải quân phương Tây.
Loại tàu ngầm Lyra đặc biệt nguy hiểm vì nó được chế tạo chỉ riêng cho mục đích săn tàu ngầm và nhóm tác chiến tàu sân bay đối phương.
Thứ hai, Liên Xô chứng minh tiến bộ trong công nghệ đóng tàu, sở hữu công nghệ mà các tàu ngầm sau này vẫn phải học hỏi. Thứ ba, hải quân NATO và Mỹ buộc phải đầu tư tiền bạc và công sức để tìm cách hóa giải mối đe dọa từ tàu ngầm Lyra.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra dài 81,4 mét, rộng 9,5 mét và cao 6,9 -7,6 mét, lượng giãn nước khi nổi là 2.300 tấn, khi chìm là 3.200 tấn. Động cơ chính của tàu là một lò phản ứng hạt nhân làm mát bằng kim loại lỏng OK-550 hoặc BM-40A có công suất 155 MW. Ngoài ra trên tàu còn một động cơ tua bin khí dự phòng với công suất 30 MW.
Vỏ tàu được làm bằng hợp kim titanium để giảm khối lượng và độ dày, qua đó giảm thiểu độ ma sát nhằm giúp tàu đạt được tốc độ cao nhất có thể.
Tàu chỉ có 31 thành viên thủy thủ đoàn nhờ vào việc tự động hóa nhiều hệ thống quan trọng, giúp tăng khả năng phản ứng khi chiến tranh nổ ra. Tuy vậy, nếu gặp phải trục trặc tàu ngầm Lyra sẽ mất nhiều thời gian hơn để bảo dưỡng và sửa chữa.
Video đang HOT
7 tàu ngầm Lyra đều được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
Để đạt tốc độ cao, tàu ngầm Lyra được trang bị tính năng đặc biệt, giúp làm mát lò phản ứng hạt nhân một cách nhanh chóng. Từ đó, tàu có thể sử dụng một lượng lớn năng lượng trong môi trường hạn chế. Nhược điểm là đội ngũ thủy thủ trên tàu sẽ khó có thể sửa chữa ngay trên biển nếu lò phản ứng gặp trục trặc.
Có thể nói, tàu ngầm hạt nhân Lyra có những tính năng mà không một tàu ngầm nào khác có thể sánh bằng. Tàu lặn sâu tới 800 mét, sâu hơn bất kỳ một tàu ngầm nào của Mỹ hay phương Tây có thể lặn tới ngày nay.
Tàu ngầm Lyra đạt tốc độ khi lặn hơn 80 km/giờ, nhanh hơn bất cứ loại ngư lôi nào thời đó.
Tàu ngầm hạt nhân này hoạt động không hề yên tĩnh chút nào ở tốc độ cao. Nhưng khả năng lặn sâu đáng kể cùng tốc độ nhanh là hai “bảo bối” khiến tàu không thể bị đối phương tấn công.
Bởi kích thước khiêm tốn nên tàu ngầm Lyra không mang được nhiều vũ khí, giới hạn ở mức 18-21 ngư lôi hoặc tên lửa hành trình. Tuy vậy, số vũ khí này được cho là đủ để đánh chìm cả một hạm đội tàu sân bay Mỹ nếu đội tàu không thể phản ứng một cách hiệu quả.
Vũ khí chính của Lyra là 6 ống phóng ngư lôi có khả năng sử dụng tên lửa RPK-2 Vyuga (tầm bắn 45km) hoặc RPK-7 Veter (tầm bắn 120km) mang đầu đạn hạt nhân. Hai loại tên lửa này được dẫn đường bằng radar Topol MRK-50 Snoop Tray.
Ngoài ra, tàu còn có 18 ngư lôi 53-65K có tầm bắn 19 km hoặc ngư lôi siêu khoang VA-111 đạt vận tốc đến 320 km/giờ cùng các loại thủy lôi.
Giống như MiG-25 và các loại vũ khí vượt trội của Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh, NATO đặc biệt lo ngại đến sức mạnh của các tàu ngầm Lyra.
Tàu ngầm hạt nhân Lyra là minh chứng cho cuộc đua không ngừng giữa Liên Xô và Mỹ trong Chiến tranh Lạnh.
Hải quân Mỹ và các nước đồng minh đã gấp rút khởi động chương trình phát triển ngư lôi tấn công Mark 48, ngư lôi cao tốc Spearfish, đạt tốc độ lên đến 150 km/giờ hay tên lửa siêu thanh UUM-125 Sea Lance có thể mang đầu đạn hạt nhân. Sau khi Liên Xô ngừng dự án tàu ngầm Lyra thì Mỹ cũng hủy bỏ chương trình vũ khí Sea Lance vì chi phí sản xuất đắt đỏ.
Được mệnh danh là “Cá vàng”, tàu ngầm Lyra đã tiêu tốn một lượng lớn ngân sách của Liên Xô. Tổng cộng có 7 tàu ngầm loại này được chế tạo nhưng chúng rất ít khi ra khơi vì việc bảo trì quá phức tạp.
Trong giai đoạn cuối Chiến tranh Lạnh, Liên Xô gặp khó khăn về tài chính nên những trang thiết bị vũ khí đắt tiền như Lyra không còn phù hợp. Vào giữa những năm 1990, toàn bộ các tàu ngầm Lyra đều được cho ngừng hoạt động và tháo dỡ.
Ngày nay, trải qua những khủng hoảng của thế kỷ trước, Nga đang hồi sinh lại những dự án chế tạo vũ khí tham vọng. Các tàu ngầm lớp Barracuda (NATO gọi là Sierra) hay tàu ngầm tấn công Shchuka (NATO gọi là Akula) đều mang những tính năng chiến đấu và tự động hóa tương tự giống như tàu ngầm Lyra.
Theo chuyên gia Faley, liệu Nga có khởi động dự án chế tạo tàu ngầm kế thừa lớp tàu ngầm Lyra hay không hiện vẫn còn là dấu hỏi.
Hải quân Nga ngày nay nắm trong tay nhiều loại tàu ngầm hạt nhân chiến lược nhưng mẫu tàu ngầm tấn công mạnh mẽ như Lyra vẫn luôn phù hợp để đối đầu với tàu ngầm Mỹ hay NATO.
Theo Danviet
"Hố đen đại dương" Nga khiến đối phương phải khiếp sợ
Tàu ngầm tàng hình thông thường chạy năng lượng diesel-điện của Nga đang rất thành công về mặt kỹ thuật và được các đối tác nước ngoài tin dùng.
Hải quân Nga tiếp nhận tàu ngầm Kolpino lớp Kilo hồi tháng 11.2016.
Theo National Interest, hải quân Mỹ hiện nay chỉ sử dụng tàu ngầm hạt nhân với chi phí đắt đỏ.
Trong khi đó, Nga duy trì hạm đội tàu ngầm thông thường và cả tàu ngầm hạt nhân. Theo đánh giá sức mạnh quân sự mới nhất, các tàu ngầm Nga hoạt động hiệu quả hơn hẳn tàu ngầm Mỹ.
Tàu ngầm hạt nhân Nga chủ yếu đóng vai trò tuần tra ở đại dương và duy trì năng lực răn đe hạt nhân chiến lược. Trong khi đó, các tàu ngầm chạy diesel-điện lại phù hợp cho các nhiệm vụ tác chiến ở châu Âu, Trung Đông hay các quốc gia giáp với Nga.
Xương sống trong hạm đội tàu ngầm thông thường của hải quân Nga chính là Đề án tàu ngầm 877 (NATO gọi là lớp Kilo). Biệt danh "hố đen đại dương" được hải quân Mỹ đặt cho tàu ngầm Kilo vì những tàu ngầm Kilo mới nhất hoạt động hết sức yên tĩnh.
Lớp tàu ngầm này đã chứng minh hiệu quả trên biển sau hơn 3 thập kỷ chế tạo và nâng cấp thường xuyên.
Tàu ngầm Kilo ban đầu được chế tạo để phục vụ hải quân các nước thuộc Khối Warszawa, thay thế cho các tàu ngầm lớp Whiskey và Foxtrot. Tàu ngầm Kilo dài 75 mét, rộng 9,7 mét và có lượng giãn nước 3.076 tấn.
Tàu chỉ cần mang theo 12 sỹ quan và 41 thủy thủ, hoạt động liên tục trong 45 ngày mới cần phải nhận hàng tiếp tế.
Tàu ngầm Kilo cuối cùng đóng cho hải quân Nga.
Sử dụng hai động cơ diesel-điện, tàu ngầm Kilo có thể đạt vận tốc 18 km/giờ khi nổi và 32 km/giờ khi lặn. Có thể nói, tốc độ không phải là thế mạnh của tàu ngầm Kilo.
Với tầm hoạt động từ 11.000-13.800km, tàu ngầm Kilo thuộc Hạm đội Biển Bắc của Nga có thể tuần tra trong khu vực rộng 2.000km trước khi khởi hành đến Cuba.
Khả năng lặn sâu cũng không phải thế mạnh của tàu ngầm Kilo. Theo thông tin chính thức, tàu có thể lặn sâu 240 mét và tối đa 300 mét. Tàu ngầm Kilo vận hành tốt nhất ở vùng nước nông, giúp cho con tàu dễ dàng ẩn nấp ở độ sâu tối đa.
Thế mạnh của tàu ngầm Kilo chính là khả năng tàng hình. Thân tàu được thiết kế với hình dạng giọt nước và giảm tối đa ma sát so với các tàu ngầm từ thời Thế chiến 2.
Động cơ diesel-điện được cô lập trong khu vực gia cố băng cao su, hạn chế tối đa khả năng thân tàu bị rung lắc, tạo thành tiếng ồn. Con tàu cũng được phủ một lớp cao su chống gỉ sét, làm giảm tối đa tiếng ồn phát ra.
Hệ thống lọc không khí tích hợp cung cấp oxy cho thủy thủ đoàn trong 260 giờ, giúp tàu ngầm lặn liên tục trong gần hai tuần.
Tàu ngầm Kilo được trang bị hệ thống radar tần thấp MGK-400 Rubikon (Shark Gill) và radar thụ động. Tàu cũng có một radar tần số cao MG519 Mouse Roar để phân loại mục tiêu, né tránh bom mìn. Trong các nhiệm vụ điều hướng đơn giản, tàu ngầm Kilo sử dụng radar MRK-50 Albatros.
Tàu ngầm Kilo của Nga từng phóng tên lửa hành trình vào các mục tiêu IS.
Về mặt vũ trang, tàu ngầm Kilo sở hữu 6 ống phóng ngư lôi tiêu chuẩn cỡ 533mm. Tàu có thể mang theo các ngư lôi tầm nhiệt và 18 quả tên lửa chống hạm SS-N-15A Starfish.
Tàu ngầm Kilo mới nhất của hải quân Nga còn có hai ống phóng, chuyên khai hỏa ngư lôi dẫn đường bằng dây dẫn, giúp tăng cường khả năng chính xác. Ngoài ra, lớp tàu này có vị trí riêng cho các thủy thủ sử dụng tên lửa phòng không vác vai Igla, trong trường hợp cần tiêu diệt máy bay đối phương truy đuổi.
Nga hiện sở hữu 11 tàu ngầm Kilo Đề án 877 từ thời Liên Xô, 9 tàu ngầm trong biên chế hải quân Ấn Độ. Iran sở hữu 3 chiếc, Algeria có 2 chiếc và Trung Quốc có 2 chiếc, mua sau Chiến tranh Lạnh.
Phiên bản nâng cấp của tàu ngầm Kilo, hay được gọi là Đề án 636.3, đang trở thành xương sống trong biên chế hải quân Nga và được đối tác nước ngoài tin dùng.
Đề án 636.3 đã nâng cấp toàn diện cho tàu ngầm Kilo. Con tàu vẫn giữ nguyên kích thước nhưng tăng cường khả năng tàng hình, đưa hệ thống máy móc đến nơi hoạt động yên tĩnh hơn.
Con tàu được gia tăng 25% phạm vi hoạt động nhưng hệ thống sonar, radar vẫn giữ nguyên. Điểm nâng cấp đáng chú ý nhất là khả năng phóng tên lửa hành trình Kalibr từ tàu ngầm Kilo.
Đây là loại tên lửa đa dụng nhất của Nga, bao gồm các phiên bản chống ngầm, chống hạm và tấn công nhằm vào các mục tiêu trên đất liền.
Việc các tàu ngầm Kilo được tích hợp khả năng phóng tên lửa hành trình Kalibr là yếu tố đáng chú ý nhất.
Tháng 12.2015, tàu ngầm Rostov-on-Don lớp Kilo đã phóng tên lửa Kalibr nhằm vào các mục tiêu của Nhà nước Hồi giáo (IS) ở Syria.
Hải quân Trung Quốc nhanh chóng trở thành nước đầu tiên sở hữu phiên bản tàu ngầm Kilo nâng cấp với 10 chiếc. Các tàu này đang hoạt động thuộc biên chế hạm đội Nam Hải và Đông Hải.
Đối tác khác là Algeria đã mua thêm 2 tàu ngầm Kilo Đề án 636.3. Việt Nam mua 6 tàu ngầm loại này, gia tăng năng lực chống xâm nhập, chống tiếp cận.
Cuối cùng, hải quân Nga mua 6 chiếc để tăng cường năng lực cho hạm đội tàu ngầm gần bờ. Tàu ngầm mới nhất thuộc lớp Kilo, Kolpino đã được bàn giao cho hạm đội Biển Đen vào tháng 11.2016.
Hải quân Nga cũng tuyên bố sẽ không mua thêm tàu ngầm Kilo mà chuyển hướng sang tàu ngầm mới hơn thuộc lớp Lada.
Có thể nói, các tàu ngầm lớp Kilo đã chứng minh tính hiệu quả của một trong những dự án đóng tàu thành công nhất thế giới. Con tàu nhanh chóng được giới quân sự NATO đánh giá cao.
Ngoài nhiệm vụ chống khủng bố của Nga ở Syria, các tàu ngầm Kilo vẫn còn cơ hội phô trương sức mạnh ở các vùng biển châu Á trong tương lai, National Interest kết luận.
Theo Danviet
Thêm tầm bắn, tên lửa Nga khiến kẻ thù "khiếp vía" Hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo S-300V4 của Nga vừa được trang bị một loại tên lửa tầm xa mới khiến nó có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở khoảng cách lên tới 400km. Đó là thông tin vừa được Trưởng phòng thiết kế của Tập đoàn Almaz-Antey ông Pavel Sozinov đưa ra hôm qua (19/5). Hôm qua (19/5),...