Sắp tháo dỡ cầu Bông – cây cầu lịch sử của Sài Gòn
Cầu Bông bắc qua rạch Thị Nghè là 1 trong những cây cầu đầu tiên ở vùng đất Sài Gòn – Gia Định, nay là TPHCM. Cây cầu này mang đậm dấu ấn của vùng đất Sài Gòn, đã đi vào lịch sử và thơ ca như 1 địa danh nổi tiếng.
Theo cố nhà văn Sơn Nam, cầu Bông được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18, có sách ghi chính xác là xây dựng vào năm 1771. Trong sách Thành phố bất khuất (NXB TPHCM in năm 1984), phần đầu tiên nói về khu Đất Hộ (Đakao), tác giả Nguyên Thanh ghi lại: “Nối liền 2 vùng Đakao và Bà Chiểu là cây cầu Bông nổi tiếng. Lúc mới xây cất năm 1771, cây cầu này mang tên cầu Cao Miên, vì do một Phó vương Cao Miên lúc đó đang xin tá túc tại Bến Nghé, cho bắt qua sông để tiện việc đi lại”.
Về cái tên cầu Bông có nhiều giả thiết, nhưng giả thuyết được nhiều nhà nghiên cứu vùng đất Sài Gòn nói đến nhất là sau khi Tả quân Lê Văn Duyệt xây dựng 1 vườn hoa xinh đẹp gần cầu này thì dân gian bắt đầu gọi là cầu Hoa. Sau này, người dân phải đọc trại thành cầu Huê vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, mẹ vua Thiệu Trị (triều Nguyễn). Sau cùng, người dân Sài Gòn đổi hẳn tên cây cầu này là cầu Bông (bông là hoa theo cách gọi của người miền Nam) cho đến nay.
Ban đầu cầu này được làm bằng gỗ, nhỏ và ngắn nhưng khá nổi tiếng của đất Sài Gòn – Gia Định. Thế nên trong tập Cổ Gia Định vịnh có câu: “Cây Da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt/ Cái cầu Cao Miên, thấy làm nguyên cột vắp ván trai”. Tác giả Vương Hồng Sển trong tập sáchSài Gòn năm xưa cũng khẳng định vùng đất quanh cầu Bông xưa có khá nhiều người Miên (Khơme) cư ngụ và người dân từng đào gặp đồ đất nung đặt sắc của người Miên dùng tại đây.
Cầu Bông như 1 cổ tích nổi tiếng của đất Sài Gòn
Kể từ khi giặc Pháp chiếm thành Gia Định, cầu Bông lại nhiều lần đi vào lịch sử cùng với chiến tích đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ của người dân vùng đất Đakao. Trong những ngày đầu Nam bộ kháng chiến, cầu Bông là 1 trong những chiến lũy vững chắc để bao vây quân Pháp trong nội đô Sài Gòn, không cho mở rộng chúng chiếm lĩnh ra ngoại ô.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cầu Bông là nơi diễn ra nhiều vụ biểu tình phản chiến của nhân dân vùng Đakao. Đây cũng là nơi diễn ra nhiều trận đánh du kích ác liệt giữa ta và địch.
Trải qua hơn 200 năm lịch sử, mấy cuộc binh đao, cầu Bông nhiều lần bị phá hủy, đánh sập nhưng nó vẫn được xây mới ngay tại vị trí này. Bởi đây là cây cầu huyết mạch nối liền 2 vùng thị tứ của vùng đất Sài Gòn xưa kia. Trước 1975, cầu Bông là cây cầu trọng yếu nhất nối liền vùng Đakao của đô thành Sài Gòn với trung tâm tỉnh Gia Định (đóng tại khu vực chợ Bà Chiểu ngày nay).
Cầu Bông nối liền 2 vùng Đakao và Bà Chiểu
Đến nay, khi TPHCM phát triển mạnh mẽ, mở rộng ra tất cả các hướng thì cầu Bông không còn là con đường thông thương trọng yếu nhất nữa nhưng nó vẫn giữ một vai trò quan trọng nối liền trung tâm thành phố với các quận ngoại thành như Bình Thạnh, Phú Nhuận, Gò Vấp…
Theo Sở Giao thông Vận tải TPHCM, cầu Bông hiện nay đã có tuổi thọ trên 50 năm, đang xuống cấp trầm trọng, các mố trụ có tình trạng nứt vỡ ảnh hưởng đến kết cấu công trình cầu, tải trọng khai thác của cầu thấp hơn tải trọng khai thác đường (không đồng bộ) nên ảnh hưởng đến việc khai thác các tuyến đường. Do đó, thành phố đã chấp thuận cho xây mới cầu Bông ngay tại vị trí cũ.
Video đang HOT
Từ ngày 26/10, cầu Bông đã được đóng cửa, chờ tháo dỡ xây mới. Theo ông Vương Hoàng Thanh, Phó giám đốc Ban quản lý đầu tư xây dựng công trình nâng cấp đô thị TPHCM (chủ đầu tư công trình xây mới cầu Bông) thì tối thiểu sau 7 ngày đóng cầu, đơn vị thi công sẽ bắt đầu tháo dỡ cầu cũ; tức là rơi vào khoảng ngày 2 – 3 tháng 11. Vậy là, không còn bao lâu nữa, cây cầu lịch sử của thành phố sẽ được tháo dỡ để xây dựng 1 cây cầu mới hơn, cao đẹp hơn.
Những hình ảnh cuối cùng của cầu Bông trước khi bị tháo dỡ:
Chỉ là 1 cây cầu ngắn, nhỏ nhưng cầu Bông lại là 1 địa danh nổi tiếng ở Sài Gòn
Cái tên cầu Bông bắc qua rạch Thị Nghè tồn tại trên tuyến đường huyết mạch này hơn 200 năm nay
Cầu đã đóng, máy móc đang được tập kết trên cầu, chuẩn bị tháo dỡ
Người dân TP lưu luyến cây cầu lịch sử.
Tùng Nguyên – Đình Thảo
Theo Dantri
Bí mật về thái giám trong cung nhà Nguyễn: Những phận đời đặc biệt
Cũng giống như các triều đại phong kiến trước đây trong lịch sử của dân tộc, triều đại nhà Nguyễn (chỉ tính từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua vào năm 1802 đến lúc vua Bảo Đại thoái vị năm 1945) vẫn duy trì chế độ sử dụng thái giám làm việc trong cung cấm.
5 thái giám trong cung nhà Nguyễn - năm 1908. Ảnh tư liệu của nhà nghiên cứu Phan Thuận An.
Thái giám là những con người có số phận rất đặc biệt kể từ lúc mới chào đời (đối với giám sinh), hay kể từ khi bị thiến (đối với giám lặt) cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay rời xa cõi thế. Từ trước đến nay, đã có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, nhiều nhà văn, nhà báo chọn cuộc đời của những vị thái giám trong cung Nguyễn để làm đề tài tác nghiệp của mình, tuy nhiên nhu cầu tìm hiểu về chuyện đời của những con người đặc biệt này của bạn đọc thời nay vẫn luôn là một thôi thúc đối với những người cầm bút.
Với bài viết này, chúng tôi hy vọng rằng sẽ thêm một lần nữa khắc họa lại một cách tường tận những câu chuyện cuộc đời còn ít người biết đến về các thái giám trong triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng của lịch sử Việt Nam.
Vốn chịu ảnh hưởng rất đậm nét của nền văn hóa phương Đông, vì vậy các triều đại phong kiến Việt Nam trong đó có triều đại nhà Nguyễn vẫn duy trì việc tuyển chọn thái giám để hầu hạ trong chốn hậu cung của nhà vua.
Gốc tích của các thái giám theo một số tài liệu nghiên cứu lịch sử đã công bố thường là có hai hệ, đó là "giám sinh" và "giám lặt". "Giám sinh" là những người con trai khi sinh ra vốn dĩ đã bị khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục mà dân gian thường gọi là "lại cái" hay "ái nam, ái nữ", đến tuổi trưởng thành không thể có khả năng quan hệ tình dục với người khác giới.
Theo quy định dưới thời phong kiến, gia đình nào sinh ra một người con như thế phải lập tức báo cáo với quan chức ở trong làng, rồi từ làng báo lên xã, lên huyện, rồi báo cáo với Bộ Lễ trong triều đình đương thời. Đứa trẻ ấy sẽ được ghi tên vào sổ theo dõi cho đến lúc cai sữa (có tài liệu cho rằng khoảng 10 hay 11 tuổi) thì sẽ được đón vào cung nuôi nấng theo nghi lễ trong cung. Đến tuổi trưởng thành, Bộ Lễ sẽ đưa vào nội cung để làm thái giám, phục vụ những công việc thường ngày trong chốn hậu cung của nhà vua.
Theo quy định, làng nào có gia đình sinh được "giám sinh" thì cả làng ấy được miễn thuế đến 3 năm và đương nhiên khi đứa con đó đã trở thành thái giám thì cha, mẹ, anh em ruột thịt sẽ nhận được rất nhiều đặc ân của triều đình. Những đứa trẻ đặc biệt ấy còn được người dân (đặc biệt là dân vùng Trung Bộ) gọi là ông Bộ. Vì thế, cho đến ngày nay thi thoảng đâu đó chúng ta vẫn nghe các bà, các mẹ khi đi chợ gặp lúc thời giá đắt đỏ, lại bị chủ hàng quán kèo nài mua hàng... thường là các bà, các mẹ buông một câu "ăn thứ đó (mặt hàng đắt đỏ) để đẻ ông Bộ cho làng nhờ à...", hoặc là trong những ngày hội hè ở các làng, xã, sau các hội thi mang tính tập thể, các đội thắng cuộc thường rất vui vẻ một cách tột bậc thì người ta thường ví niềm vui đó theo kiểu nói "vui như làng đẻ được ông Bộ".
Ngoài những thái giám có nguồn gốc là "giám sinh" thì trong hàng ngũ thái giám phục vụ trong Tử cấm thành còn có những ông "giám lặt". Theo tạp chí Xưa & Nay số 6, ấn hành tháng 9/1994 thì họ là những thiếu niên bị thiến từ khi còn nhỏ rồi sau đó đưa vào cung nuôi. Khi thiến, người ta buộc chặt bụng và đùi của người bị thiến vào một cái bàn đầu cao hơn chân. Bộ phận sinh dục được rửa bằng nước hồ tiêu để sát trùng. Đứa trẻ được cho uống một thứ thuốc gây mê được bào chế từ thuốc bắc. Người thiến hỏi "có bằng lòng thiến không?".
Sau khi nghe đứa trẻ nam nói bằng lòng, ngay lập tức người thiến hạ dao cắt dương vật, bìu và tinh hoàn, rồi đặt ống thông hơi vào chỗ tiểu tiện... sau 3 tháng, vết thương sẽ lành. Sau khi bị thiến, đứa trẻ nam trưởng thành sẽ bị rụng râu, rụng lông, ăn nói yểu điệu, giọng the thé giống như con gái. Tất cả những bộ phận bị cắt bỏ sẽ được sao tẩm để cất giữ lâu dài, khi được thăng chức sẽ đưa thứ ấy ra để trình làm vật chứng và đến khi thái giám ấy chết thì "bảo vật" ấy sẽ được chôn theo thi thể.
Một nhóm thái giám triều Nguyễn - năm 1918. Ảnh tư liệu của Nhà nghiên cứu Phan Thuận An.
Tài liệu của nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân cho biết: Người làm thái giám trong cung gọi là hoạn quan. Hoạn có nghĩa là làm tôi tớ. Nhưng những từ hoạn quan làm người đời hiểu từ hoạn là thiến (ví dụ như hoạn heo là người ta cắt bỏ đi tinh hoàn của con heo đực). Trong Tử cấm thành chỉ có một người đàn ông là đương kim hoàng đế, còn lại toàn là các bà phi, tần, nữ quan, thị nữ. Từ việc sai vặt, hầu hạ vua và các bà hoàng thái hậu, các bà phi cho đến những việc nặng nhọc khác của đời sống trong cung đều giao cho các thái giám. Công việc đặc biệt nhất và nặng nề nhất của các thái giám là việc sắp đặt cho quá trình ân ái của nhà vua.
Tài liệu của Công sứ A.Laborde đã công bố trong tập san "Những người bạn Cố đô Huế - B.A.V.H - tập 5 - 1918" có ghi lại rằng: Thái giám hầu cận vua đi vào một phòng kín; tại đây có một tập thẻ ngọc, mỗi thẻ có ghi bằng chữ vàng tên của một cung tần. Sở thích của vua được biểu lộ rõ rệt vào lúc ban ngày trên một thẻ nào đó, tấm thẻ được úp sấp lại. Thái giám hiểu và đi đến khuê phòng của người mỹ nữ đã được chỉ định, treo một cây đèn ú màu đỏ...
Trong khi người đàn bà được chờ đợi ấy cởi áo quần thì lập tức thái giám bước vào, cầm một áo khoác màu đỏ không có tay. Người mỹ nữ trần truồng run rẩy trước cái nhìn của một sinh vật vô giác, nhưng cánh tay mạnh mẽ đã quấn nàng vào trong áo choàng, và một sự xiết chặt có vẻ nóng hổi phủ trên mình. Những hành lang có âm vọng của bước chân đi qua, thái giám bước nhanh, ôm chặt trên ngực của báu ấy lại cái lạnh lẽo của một căn phòng. Dừng chân lại. Ánh sáng lờ mờ, hơi thơm thoang thoảng, thái giám đặt khối nặng ấy vào trong cái mơn man của nhung lụa trên một cái giường. Sáng hôm sau, người thái giám đứng canh trong đêm, mang mỹ nữ đang thiêm thiếp trở lại khuê phòng.
Thái giám lại làm tờ trình để xác nhận trong trường hợp xảy ra thụ thai. Điều bắt buộc trước lúc trở lại khuê phòng là người phụ nữ đã được vua "ngự dâm" ấy nằm trong áo choàng và được đưa đến trình diện nơi một cái bàn thờ để cầu thần phù hộ cho việc làm của vua.
Trong bài "Thái giám - loại người phục vụ đặc biệt trong cung Nguyễn", nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân viết: Việc chọn lựa người để ân ái là do vua quyết định. Nhưng các thái giám cũng có nhiều "mánh khóe" để có thể "tiếp thị" với nhà vua nên chọn bà nào. Do đó, nhiều thái giám hay được các bà đút lót quà bánh để được vua "sủng ái" nhiều lần. Có nhiều bà do khinh thường thái giám nên suốt cả cuộc đời ở trong cung cấm vẫn không một lần được thấy mặt vua...
Thái giám là những người thân cận nhất của vua và biết rất rõ về đời tư của vua. Vì vậy, để tránh sự lộng quyền của các thái giám trong cung cấm, nhà Nguyễn đã sử dụng hệ thống thái giám trong cung vào những việc sai vặt chứ nhất định không cho can dự vào triều chính. Bởi lẽ trước đó, nhà Nguyễn đã rút ra được một bài học về sự lạm quyền của cận thần thái giám Lê Văn Duyệt thời Nguyễn sơ.
Lê Văn Duyệt là một thái giám được ở chỗ màn trướng của Nguyễn vương (sau này là Vua Gia Long), là người có công rất lớn trong việc khôi phục lại giang sơn của nhà Nguyễn. Về sau Lê Văn Duyệt với chức vụ Tổng trấn đã quyết định nhiều việc quan trọng ở vùng Gia Định - Đồng Nai ngoài ý muốn của vua, điều đó đã làm cho một số ông vua đầu triều Nguyễn lấy làm khó chịu và hết sức bất bình, đặc biệt là Vua Minh Mạng (đương nhiên là bên cạnh đó còn có nhiều lý do bất bình tế nhị khác).
Theo tác giả A.Laborde trong B.A.V.H, 1918 thì vào ngày mồng 1 tháng 12 năm Minh Mạng thứ 17 (tức ngày 17/3/1836) Vua Minh Mạng đã ra một chỉ dụ và chỉ dụ này đã chấm dứt những sự lạm dụng thái quá của các thái giám dưới triều Minh Mạng. Từ đó, các thái giám làm việc, hầu hạ trong cung cấm không phụ thuộc vào bất cứ một quy tắc pháp luật nào cụ thể cả, họ sống ngoài lề so với các quan chức khác trong cung, đi lượm nơi này, nơi kia chút ít ân huệ để làm vui cho cuộc sống.
Về sau này, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng cho biết rằng, do thái giám Lê Văn Duyệt có những can gián trong việc muốn đưa Hoàng tử Anh, cháu nội của dòng chính nối ngôi Vua Gia Long và tỏ ra không thuận tình về việc lên ngôi của Vua Minh Mạng là con thứ. Vì những lý do đó mà Vua Minh Mạng đã có nhiều ác cảm với Lê Văn Duyệt. Việc Vua Minh Mạng ra chỉ dụ là nhằm hạn chế các ưu đãi đối với thái giám vốn dĩ trước đó họ được hưởng, bên cạnh đó chỉ dụ còn hạ bệ các thái giám xuống địa vị của những kẻ hầu hạ.
Trong tờ dụ này, Vua Minh Mạng nói rõ là từ rày về sau, thái giám không được có một danh tước gì mà trong bất kỳ trường hợp nào họ cũng không thể được tiến cử vào hệ thống quan lại. Vua Minh Mạng cũng đã nhắc lại trong tờ dụ là chức vụ của các thái giám chỉ để chuyển giao các mệnh lệnh và họ không được dính dáng đến bất cứ trường hợp nào trong việc cai trị của triều đình.
Tờ dụ của Minh Mạng cũng nêu rõ là thái giám nào phạm tội bất tuân các luật lệ mới được nêu trong tờ dụ này sẽ bị trị tội rất nặng không hy vọng được khoan dung, đồng thời ra lệnh là nội dung của tờ dụ này phải được khắc vào bia trước trường Quốc Tử Giám (Văn Thánh) để cho tất cả các thái học sinh hiểu và truyền về sau cho hậu thế.
Vì nội dung của tờ dụ Vua Minh Mạng bắt buộc là các thái giám không được đưa vào ngạch quan trường, nên đã tạo ra cho họ một hệ thống giai cấp đặc biệt để sắp xếp các ngạch, bậc và quy định lương bổng bằng lúa và quan tiền.
Theo đó, Hạng nhất là Thủ đẳng thì cấp bậc là Quảng vụ và Điển sự Thái giám, số bát gạo hàng tháng được hưởng là 48, số quan tiền hàng tháng được hưởng là 72. Hạng nhì là Thứ đẳng, cấp bậc là Kiểm sự và Phụng nghi Thái giám, số gạo hàng tháng được hưởng là 36, số quan tiền hàng tháng được hưởng là 60. Hạng ba là Trung đẳng, cấp bậc là Thừa vụ và Điển thắng Thái giám, số gạo được hưởng là 36, số quan tiền là 48. Hạng tư là Á đẳng, cấp bậc là Cung vụ và Hộ thảng Thái giám, số gạo được hưởng là 24, số quan tiền là 36. Hạng Năm là Hạ đẳng, cấp bậc là Cung phụng và Thừa biện Thái giám, số gạo được hưởng là 24, số quan tiền được hưởng là 24.
Đến thời của Vua Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) có một vài thay đổi về lương tính bằng quan tiền được tăng lên. Đến thời Vua Thành Thái năm thứ 2 (1890) lương của thái giám hàng tháng nhận bằng lúa và quan tiền bị bỏ hẳn và thay bằng đồng bạc. Đến thời Vua Duy Tân năm thứ 6 (1912) thì lương bổng của thái giám được quy định lại như sau: Quảng vụ: 540 đồng/năm; Điển sự: 384 đồng/năm; Kiểm sự và Phụng nghi: 324 đồng/năm; Thừa vụ: 276 đồng/năm; Điển thảng: 264 đồng/năm; Cung vụ và Hộ thảng: 204 đồng/năm; Cung phụng và Thừa biện: 180 đồng/năm.
Trong đời sống và đặc biệt là sau khi Vua Minh Mạng cho ra tờ dụ vào năm 1836, bản thân các thái giám không được hưởng bất cứ một vinh dự nào giống như các quan chức khác ở trong cung. Tuy nhiên, các thái giám lại mang về cho cho người thân một vài vinh dự. Theo quy định thì các thái giám nằm trong 3 hạng trên là Thủ đẳng, Thứ đẳng và Trung đẳng có thể đứng ra xin cho cha họ chức Nhiêu phụ, là chức được vĩnh viễn miễn thuế cũng như xin phong chức Miễn nhiêu (khỏi thuế cả đời) cho anh em hay cho cháu. Các thái giám hạng tư (Á đẳng) hay hạng năm (Hạ đẳng) thì không được xin gì cho cha mà chỉ có thể xin một chức Miễn nhiêu cho anh em hay cháu mà thôi...
Theo Dantri
Nhích từng cm khi cầu huyết mạch ở TP HCM bị đóng Chiều 28/10, hàng chục nghìn xe máy nối đuối nhau nhích từng chút một qua cầu tạm vì cầu Bông nối quận 1 và Bình Thạnh bị đóng để xây mới. Bắt đầu từ 17h, mật độ xe máy từ hướng quận 1 (đường Đinh Tiên Hoàng) đổ về phía quận Bình Thạnh, Phú Nhuận mỗi lúc một đông. Đường Trường Sa đoạn...