Sắp có lời giải cho 156.000 tỷ đồng nợ xấu
Dự thảo Nghị định về Công ty quản lý tài sản đã hoàn thành, nếu thuận lợi trong tháng 4 sẽ ban hành. Đây là một giải pháp quan trọng để xử lý gần 156.000 tỷ đồng nợ xấu của hệ thống ngân hàng, qua đó gỡ nút thắt tín dụng.
Trao đổi với Dân trí tại Hội thảo “Triển vọng kinh tế 2013 – Cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam” do trường doanh nhân PTI tổ chức ngày 10/03/2013, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển (thành viên nhóm cố vấn kinh tế của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) tiết lộ, Dự thảo Nghị định thành lập Công ty Quản lý tài sản Việt Nam (VAMC) hiện đã hoàn thành, nếu thuận lợi sẽ ban hành vào tháng 4 tới.
Trước đó, tại Nghị quyết phiên họp triển khai nhiệm vụ đầu năm diễn ra sau Tết Nguyên đán, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước phải khẩn trương trình Thủ tướng phê duyệt Đề án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng, trình Chính phủ thành lập và quy định về Điều lệ Công ty quản lý tài sản để triển khai thực hiện ngay trong quý I/2013.
Theo nhận định của chuyên gia Trương Đình Tuyển, nợ xấu là một trong những thách thức lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam 2013. Theo đó, đây là mấu chốt của nhiều vấn đề liên quan đến tăng trưởng tín dụng, khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến chỉ tiêu tăng trưởng GDP.
Trong 6 tháng đầu năm, Chính phủ sẽ tập trung vào việc xử lý nợ xấu và đến cuối tháng này, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ có thể sẽ bàn đến việc ban hành một khung pháp lý cho thành lập VAMC. Tuy nhiên, theo đánh giá của ông thì vấn đề nợ xấu sẽ vẫn chưa thể được giải quyết trong nửa đầu năm và sẽ cần một thời gian – do đó, tín dụng đến giữa năm chưa tăng trưởng được như mong muốn. Hai tháng đầu năm, dư nợ tín dụng ra nền kinh tế vẫn ở mức âm 0,16%.
Nợ xấu đang là nút thắt, gây tắc nghẽn dòng tín dụng từ ngân hàng tới doanh nghiệp.
Video đang HOT
Từng trao đổi về vấn đề này với Dân trí tại cuộc họp báo gần đây của Worldbank, TS Võ Trí Thành nhận xét, tiến trình xử lý nợ xấu cũng như xử lý các ngân hàng yếu kém của Việt Nam có phần chậm trễ – mà một trong những lý do là “thiếu tính kiên quyết và triệt để”.
Điều này thể hiện ở việc thiếu sự giải trình với xã hội trước những băn khoăn liên quan đến vấn đề dòng tiền, lợi ích nhóm, những vấn đề văn bản pháp lý cho giao dịch tài sản và nguồn lực thực hiện.
“Cái khó nhất hiện nay là liệu các nhà hoạch định chính sách có dám ra đối diện với thị trường để có một cách giải trình minh bạch hay không. Đây là điều quan trọng trong bối cảnh lợi ích nhóm và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước đang là những vấn đề rất nhạy cảm”.
Ông cũng khẳng định, những nguyên tắc cho xử lý nợ xấu đã được đặt ra khá rõ ràng: Nguyên tắc trước hết là minh bạch. Thứ đến đảm bảo thị trường mua bán nợ xấu có thanh khoản. Ba là tối thiểu hóa can thiệp và chi phí của Nhà nước – chưa đề cập đến khả năng có thể có lãi từ hoạt động này hay không. Cuối cùng là phải gắn xử lý nợ xấu với chương trình tái cơ cấu, ổn định kinh tế vĩ mô.
Đề cập đến nguồn vốn cho VAMC, TS Thành nói :”Tiền là quan trọng nhưng không phải quan trọng nhất, chúng ta có đủ cách và đủ tiền để làm.” Theo đó, nếu coi nợ xấu của Việt Nam có 10 đồng, nhiệm vụ phải đưa về 3 đồng chứ không phải đưa về 0. Trong số 7 đồng phải xử lý thì dự phòng rủi ro đã là 3-3,5 đồng và phần còn lại 3-3,5 đồng cũng không bắt buộc phải xử lý ngay lập tức.
Ông cũng cho biết thêm, tất cả AMC trên thế giới hầu hết có hai cách tạo tiền ban đầu: cách thứ nhất là do Ngân hàng Trung ương bơm tiền; cách thứ hai là Chính phủ phát hành trái phiếu nhà nước bảo lãnh.
“Để chống lại lợi ích nhóm thì VAMC sẽ thuộc Chính phủ chứ không thuộc NHNN hay Bộ Tài chính, và sẽ có nhiều cơ quan tham gia để đảm bảo quá trình này minh bạch” – TS Võ Trí Thành cho hay.
Trong bối cảnh hiện tại, sự ra đời và vai trò của VAMC là cần thiết và hành động của Chính phủ phải thật sự quyết liệt. Bởi, điều này quyết định sự tăng trưởng dòng tín dụng trong ngắn hạn và tính lành mạnh của hệt thống ngân hàng.
Tuy nhiên, VAMC chỉ là một giải pháp quan trọng trong tổng thể rất nhiều giải pháp liên quan đến xử lý nợ xấu như cải cách doanh nghiệp nhà nước, cơ cấu lại nợ của các NHTM và gắn với vai trò của DATC (Bộ Tài chính).
Theo thông tin mới nhất, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng đã được giảm xuống còn 6% trên tổng dư nợ, tương đương với gần 156 nghìn tỷ đồng (tạm tính của tác giả bài viết dựa trên các số liệu công bố của NHNN).
Theo Dantri
Ngân hàng bị buộc tăng trích lập dự phòng
Ngân hàng Nhà nước VN vừa ban hành Thông tư số 02/2013 buộc các ngân hàng phải tăng trích lập dự phòng tài chính trong năm nay. Đây là động thái cần thiết để tăng cường ổn định hệ thống ngân hàng và giảm nợ xấu.
Hết đường "lách"
Trong thời gian qua, để tránh trích lập dự phòng rủi ro, không ít ngân hàng (NH) tìm cách cho vay dưới những hình thức khác nhau mà phổ biến là ủy thác đầu tư hay cho vay qua thẻ tín dụng. Việc ủy thác tiền gửi, cho đến thời điểm cuối năm 2011, không phải tính vào tăng trưởng tín dụng và cũng không phải trích lập dự phòng rủi ro. Vì vậy khi có sự cố xảy ra, cổ đông của NH sẽ là người gánh chịu.
Ngoài ra, các NH trong và ngoài nước đều đang chạy đua phát hành thẻ tín dụng với hạn mức thông thường gấp 2-3 lần thu nhập hằng tháng của người sử dụng thẻ. Chưa kể trong điều kiện phát hành thẻ tín dụng khá dễ, một người có thể cùng lúc sử dụng đến 4-5 thẻ, hạn mức tín dụng thẻ cộng lại có thể lên đến 8 - 10 tháng lương. Điều này tiềm ẩn rủi ro nếu người sử dụng mất khả năng chi trả hoặc khi bị mất việc. Do đó quy định mới có hiệu lực từ ngày 1.6.2013 đã bổ sung các loại tài sản mà NH phải trích lập dự phòng gồm các khoản cấp tín dụng dưới hình thức phát hành thẻ tín dụng Số tiền mua và ủy thác mua trái phiếu chưa niêm yết Ủy thác cấp tín dụng và Tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán). Các quy định này khiến các NH sẽ phải thận trọng và cân nhắc hơn khi cho vay.
Theo Công ty chứng khoán Bản Việt, quy định mới này mang yếu tố tích cực, thể hiện quyết tâm của NH Nhà nước VN (NHNN) trong việc từng bước đưa các quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng của VN gần với tiêu chuẩn quốc tế.
TS Lê Thẩm Dương - Trưởng khoa Quản trị kinh doanh (Trường ĐH Ngân hàng TP.HCM) nhận định: Hiện tượng trích lập dự phòng không đầy đủ và không trung thực trong báo cáo nợ xấu của hệ thống NH thời gian qua đã gây nên hệ lụy đến hiện nay là tổng nợ xấu gia tăng mạnh. Vì vậy quy định mới này sẽ khắc phục được tình trạng lợi nhuận "ảo" của các NH và nâng cao tính an toàn cho toàn hệ thống.
Quy định buộc các NH tăng trích lập dự phòng giúp tăng độ an toàn trong hoạt động của hệ thống - Ảnh: D.Đ.M
Siết chặt báo cáo nợ xấu
NHNN cũng yêu cầu các NH phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để xếp hạng khách hàng theo định kỳ hoặc khi cần thiết để làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng, xây dựng chính sách dự phòng rủi ro phù hợp. Đồng thời các NH phải cung cấp kết quả tự phân loại nợ cho trung tâm thông tin tín dụng. Sau đó trung tâm này sẽ tổng hợp và cung cấp lại cho các NH danh sách khách hàng thuộc nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất để điều chỉnh kết quả phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro. Trước đây do chưa có quy định mà tỷ lệ nợ xấu theo báo cáo của các NH chỉ khoảng 4,9% trong khi theo ước tính của NHNN thì tỷ lệ này lên đến hơn 8,8%. Vì vậy quy định mới khi đi vào thực thi sẽ giúp giải quyết được "độ vênh" đó.
TS Lê Thẩm Dương nhận định, quy định này sẽ dần dần đưa các NH vào hoạt động chuẩn mực hơn. Từ đó tăng trách nhiệm của ban lãnh đạo và tăng tính cạnh tranh của các NH. Quá trình hội nhập đòi hỏi hệ thống NH phải dần dần hoạt động theo các chuẩn mực quốc tế. NHNN cần mạnh dạn hơn trong việc đưa ra những quy định trong hoạt động của ngành NH theo các tiêu chuẩn quốc tế, nhất là trong bối cảnh Chính phủ quyết tâm tái cơ cấu hệ thống NH. Đặc biệt việc tăng trích lập dự phòng và tăng cường quản trị rủi ro nội bộ sẽ làm giảm được nợ xấu trong tương lai của hệ thống NH.
Đồng quan điểm trên, chuyên gia NH Nguyễn Trí Hiếu cho rằng các giao dịch vay mượn, đầu tư kể cả trái phiếu, tín phiếu đều có những rủi ro nên đều phải được trích lập dự phòng. Đây cũng là chuẩn mực mà quốc tế đều áp dụng. Chuyên gia này lưu ý việc gia tăng trích lập dự phòng, báo cáo nợ xấu theo quy định mới có thể làm cho các NH bị giảm lợi nhuận. Từ đó, mục tiêu giảm lãi suất của NHNN khó thực hiện do các NH có thể tiếp tục tìm cách duy trì lãi suất cho vay cao để bù đắp khoản lợi nhuận bị hụt. Do đó NHNN cần lưu ý sử dụng các công cụ để ổn định thanh khoản, không cho các NH tăng lãi suất.
Theo TNO
Doanh nghiệp phá sản "cả làng" vạ lây Theo số liệu của các cơ quan thống kê hai năm 2011-2012 có tới trên 100.000 doanh nghiệp phá sản hoặc ngừng hoạt động. Số liệu của một số chuyên gia là trên 200.000 doanh nghiệp rơi vào tình trạng đó với gần một triệu người mất việc làm. Theo con số của Chính phủ công bố trong hai tháng đầu năm có...