Sang Indonesia sản xuất, bán ôtô 300 triệu cho dân Việt?
Trong khi tính chuyện rút khỏi Việt Nam thì Toyota sẽ rót thêm 1,6 tỷ USD cho nhà máy sản xuất ô tô tại Indonesia. Tại Việt Nam, chính sách không rõ ràng và nhất quán khiến sản xuất ô tô đì đẹt và thua xa các nước ASEAN.
Tham vọng soán ngôi Thái Lan
Tờ Just Auto dẫn lời Tổng thống Indonesia Joko Widodo trong chuyến thăm Nhật Bản vừa qua cho hay, tập đoàn Toyota đã quyết định chi thêm 1,6 tỷ USD để tái thiết nhà máy sản xuất ô tô của họ ở Karawang, Tây Java. Với kế hoạch đó, Toyota tham vọng tăng gấp ba lần sản lượng xe lắp ráp tại đảo quốc này.
Indonesia thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô phát triển từ năm 1995, đến nay đã thành công và được nhận định, sẽ soán ngôi của Thái Lan để trở thành trung tâm công nghiệp ô tô lớn nhất Đông Nam Á trong thời gian tới. Cũng cùng thời điểm đó, Việt Nam bắt đầu thúc đẩy phát triển công nghiệp ô tô, nhưng đến nay chưa đâu vào đâu.
Phó Tổng thống Indonesia – ông Boediono hồi cuối tháng 9/2014 đã khẳng định, sản xuất ô tô hiện đã trở thành xương sống của ngành công nghiệp Indonesia khi đáp ứng được ba trụ cột của phát triển công nghiệp, gồm: tăng giá trị cho sản phẩm, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và cho phép Indonesia tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính phủ Indonesia đã thiết lập các mục tiêu rõ ràng, cụ thể cho ngành công nghiệp ô tô ngay từ đầu, với ngắn hạn là phục vụ nhu cầu trong nước, trung hạn và dài hạn là xuất khẩu ra thị trường thế giới. Một loạt các chính sách từ thu hút đầu tư, liên doanh với nước ngoài là những đối tác đang chi phối thị trường ô tô thế giới như Nhật Bản, Mỹ và Hàn Quốc đến tạo điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi cho các nhà sản xuất, thực hiện kế hoạch dài hạn phát triển các ngành công hỗ trợ trợ, thành lập các trung tâm nghiên cứu phát triển,… nhanh chóng được thông qua và áp dụng.
Ngay từ 1995, Indonesia đã đưa ra chính sách khuyến khích đầu tư vào sản xuất ô tô. Nếu nhà sản xuất nào đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 40% đến 60%, thì phần linh kiện còn lại nhập khẩu sẽ được áp thuế suất 0%.
Trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế, đến tháng 6/1999, chính phủ Indonesia tuyên bố chính sách mới cho ngành công nghiệp ôtô với mục tiêu phát triển một ngành công nghiệp hiệu quả và mang tính cạnh tranh toàn cầu. Lúc này, xe nhập nguyên chiếc bị hạn chế, còn thuế nhập khẩu cho xe CKD tùy thuộc vào từng loại xe.
Năm 2007, Indonesia đặt kế hoạch phát triển xe chiến lược giá rẻ và tiết kiệm nhiên liệu. Chính phủ đã quy định ô tô nằm trong diện ưu đãi cần có dung tích động cơ dưới 1.200 phân khối, giá dưới 10.000 USD và tiêu thụ nhiên liệu dưới 5 lít cho 100 km. Tỷ lệ nội địa hóa trên 60%. Nhờ chính sách thuế và các chế độ ưu đãi, đã giúp các DN định được mức giá rất thấp cho các dòng xe nhỏ thân thiện với môi trường. Giá phổ biến trong nước chỉ 10 – 15 ngàn USD tương đương 300 triệu VND
Video đang HOT
Đến 2013, hầu hết các hãng xe đã giới thiệu đến người dùng một loạt mẫu xe nhỏ, tiết kiệm nhiên liệu và có giá rẻ, đáp ứng hầu hết các nhu cầu của người tiêu dùng bình dân và đáp ứng đầy đủ các thiết bị cần thiết cũng như thiết bị an toàn.
Kết thúc năm 2014, sản lượng ô tô của Indonesia đạt 1,3 triệu chiếc, đáp ứng hầu hết nhu cầu trong nước và xuất khẩu 200.000 chiếc. Hiệp hội các nhà chế tạo xe ô tô Indonesia cho biết, năm 2015 sản lượng ô tô có thể đạt 1,61 triệu chiếc, xuất khẩu 396.000 chiếc. Còn đến năm 2020 sản lượng ô tô của Indonesia sẽ đạt 2,59 triệu chiếc, trong đó tiêu thụ nội địa 1,97 triệu và xuất khẩu 620.000 chiếc.
Việt Nam chủ yếu nhập linh kiện về để lắp ráp. Sắp tới thuế giảm, các DN đang tính chuyện nhập khẩu xe nguyên chiếc (Ảnh minh họa: Lao động)
Tập đoàn Tư vấn và nghiên cứu thị trường Ipsos Business Consulting cho biết, khoảng 7-10 năm nữa, Indonesia sẽ chiếm giữ vị trí số 1 về sản xuất ô tô của Đông Nam Á. Khi đó, các nhà sản xuất linh kiện Thái Lan sẽ quay sang phục vụ Indonesia và cả ngành công nghiệp ôtô Thái Lan cũng sẽ dựa vào Indonesia để xuất khẩu.
Việt Nam: Chính sách thiếu nhất quán
Sau khi đã xây dựng và ban hành các chính sách về ô tô, thì Indonesia rất ít thay đổi, nhằm tạo môi trường ổn định, cho DN yên tâm đầu tư, nhất là các chính sách về thuế.
Chẳng hạn, Indonesia áp dụng hai mức thuế cơ bản với ô tô là nhập khẩu và hàng xa xỉ (tương tự như thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam). Thuế nhập khẩu ở mức 40% dành cho xe nguyên chiếc. Nếu lắp ráp dưới dạng CKD (bộ linh kiện hoàn chỉnh) thuế nhập là 10% và lắp dưới dạng IKD (bộ linh kiện không hoàn chỉnh) thuế là 7,5-8%.
Thuế xa xỉ phân theo các dung tích động cơ, dao động trong khoảng 30-75%. Riêng với dòng xe chiến lược với tỷ lệ nội địa hóa trên 60% thì thuế xa xỉ chỉ là 10% hoặc thấp hơn, nhằm khuyến khích các hãng tham gia. Các mức thuế này đã duy trì hơn 10 năm qua và không có thay đổi.
Trong khi đó, thuế, phí ô tô tại Việt Nam thay đổi chóng mặt. Năm 2007 và 2008 được coi là đỉnh cao của sự bất ổn thuế. Riêng 2007, thuế nhập khẩu khẩu xe mới giảm từ 90% xuống 80% rồi 70% và cuối cùng là 60%. Sang 2008, với mục tiêu “giảm ách tắc giao thông”, chỉ trong 4 tháng thuế tăng lại thành 70% và 83%. Một tốc độ thay đổi mà gần như không quốc gia nào có, theo nhận định của giới chuyên gia.
Không chỉ thuế, thị trường ôtô Việt Nam còn liên tục bị ảnh hưởng bởi chính sách phí. Trong 2012, việc tăng lệ phí trước bạ lên 15-20%, đã khiến cho thị trường ô tô sụt giảm doanh số tới 33% so với 2011.
Hiện nay, trong khi Bộ Công Thương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển công nghiệp ô tô, thì các Bộ Tài chính, Giao thông Vận tải xây dựng các chính sách hạn chế ô tô. Mỗi cơ quan một kiểu, không chung một hướng nhìn, là nguyên nhân dẫn đến ngành công nghiệp ô tô lẹt đẹt như hiện nay.
Theo Trần Thủy
Vef
Tan giấc mơ ô tô Việt: Sự thất bại của nội địa hóa
10 năm qua, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam gần như thất bại trong nội địa hóa.
Bỏ sản xuất ô tô con sang làm xe buýt
Xe tải từ 10 tấn trở xuống, xe buýt, xe khách trên 29 chỗ nên được xác định đây là dòng ô tô chiến lược thời gian tới. Ảnh: L.H.V.
Yếu tố quyết định để phát triển ngành công nghiệp ô tô là thị trường, nhưng Việt Nam với hơn 90 triệu dân vẫn chỉ nằm ở dạng tiềm năng. Năm 2014, Việt Nam chỉ tiêu thụ 150.000 xe, trong khi Thái Lan tiêu thụ 2,1 triệu xe, Indonesia, Malaysia cũng gần tương đương.
"Trở ngại chính là thị trường tiêu thụ ô tô của nước ta quá nhỏ, không tạo sức hút cho nhà đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ trong nước. Đầu tư công nghệ ô tô rất tốn kém, nhưng chỉ cung cấp được cho vài nghìn xe sẽ chẳng ai dại gì làm", chủ một doanh nghiệp chuyên lắp ráp ô tô phân tích.
Ông Đào Phan Long - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam (VAMI) cho rằng: Các nước phát triển đều chú trọng ngành công nghiệp ô tô. Phân khúc xe cá nhân lợi nhuận cao nên các nước đều đã phân chia thị trường, Việt Nam muốn chen chân rất khó. Chỉ còn phân khúc xe tải nhẹ, xe buýt, xe khách các hãng lớn ít chú trọng mới tới phần Việt Nam, do chi phí vận chuyển sản phẩm cao. "Chúng ta chưa làm được động cơ xe, nhưng tỷ lệ nội địa hóa với xe khách, xe tải cũng đạt khá", ông Long nói.
Không hiểu "chiến lược" muốn gì
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam ra đời lần đầu tiên năm 2004. Tuy nhiên, sau 10 năm thực hiện, ngành sản xuất ô tô trong nước vẫn ở dạng sơ khai, nhập máy móc về lắp ráp là chính. "Những năm qua, thực hiện chiến lược ô tô giống như gia công giày da, may mặc nên thất bại là đương nhiên", ông Đào Phan Long nói.
Chiến lược cũ không thành công, tháng 7/2014, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. Tuy nhiên, đã gần 1 năm trôi qua, Bộ Công Thương và Bộ Tài chính vẫn chưa nghiên cứu xong cơ chế, chính sách để thực hiện.
Tổng Giám đốc Toyota Việt Nam Yoshihisa Maruta từng nói rằng, đọc xong chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, ông vẫn chưa rõ thực chất chiến lược muốn gì. Đến nay, các bộ, ngành vẫn chưa có những văn bản hướng dẫn cụ thể, nên các hãng không biết phải làm gì cho đúng chiến lược Chính phủ đã ban hành. "Quyết định của các doanh nghiệp có tiếp tục đầu tư lắp ráp trong nước hay mở rộng nhập khẩu sẽ phụ thuộc vào những chính sách cụ thể hóa chiến lược đó", ông Maruta nói.
Lãnh đạo một doanh nghiệp sản xuất ô tô trong nước nhận định: Chiến lược ô tô mới của Việt Nam hơi "viển vông" và theo ý chí của nhà quản lý. Theo ông, chiến lược đưa ra phải tương ứng với tốc độ phát triển kinh tế, thu nhập của người dân, không phải ai muốn thế nào thì viết ra như vậy.
"Khi đề ra chiến lược nên ghi rõ: Dòng xe ưu tiên là gì; Doanh nghiệp đáp ứng điều kiện cụ thể thế nào sẽ nhận được ưu đãi ra sao. Phải ghi rõ như vậy mới tránh được tình trạng xin - cho, ai quan hệ tốt sẽ được ưu đãi nhiều", ông này nói. Do vậy, muốn công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển phải có chính sách đột phá lớn, để các nhà sản xuất ô tô thế giới chuyển về Việt Nam.
Ông Lâm Chí Quang, Phó Chủ tịch, kiêm Trưởng Ban ô tô của VAMI, cho biết: Thị trường ô tô Việt Nam có tiềm năng rất lớn, chiến lược phát triển ô tô đã được Thủ tướng thông qua, nhưng các chính sách vẫn chậm được ban hành, đặc biệt về thuế và phí. "Các chính sách thuế cần ổn định trong ít nhất 10 năm", ông Quang nói. Theo ông Quang, Chính phủ cần thay đổi cách tính thuế tiêu thụ đặc biệt với xe lắp ráp trong nước, thay cách tính thuế này khi xe đã xuất xưởng bằng việc đánh thuế trên bộ linh kiện nhập khẩu.
"Nếu thay cách đánh thuế, nhà sản xuất ô tô nào đẩy mạnh nội địa hóa sẽ được khuyến khích, đồng thời duy trì được sản xuất trong nước sau năm 2018. Từ đó, hướng tới mục tiêu xe được sản xuất trong nước đáp ứng 70% nhu cầu, như mục tiêu chiến lược ô tô mới ban hành. Cách đánh thuế này sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực ô tô", ông Quang nói.
Theo ông Long, việc tính thuế với ô tô lắp ráp trong nước có thể căn cứ giảm thuế theo tỷ lệ nội địa hóa, nội địa hóa nhiều sẽ chịu mức thuế thấp.
Theo Lê Hữu Việt - Tuấn Đức
Tiền Phong
Chính sách thuế đang "bóp" mong muốn nội địa hóa ô tô Các địa phương muốn thu được thuế nhiều và nhanh, nên đầu tư cho lắp ráp, nhập xe nguyên chiếc được khuyến khích hơn so với đầu tư cho sản xuất. Đầu tư cho nội địa hóa đạt mức 50% thì phải sau 5 năm mới bắt đầu nộp thuế giá trị gia tăng và cũng cần ít nhất 5 năm nữa thì...