Sản lượng điện sản xuất của EVN tăng 7,8% trong quý I/2022
Ngày 6/4, Tập đoàn Điện lực Việt Nam ( EVN) cho biết, trong quý I/2022, EVN đã đảm bảo cung cấp điện ổn định, an toàn cho phát triển kinh tế – xã hội, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhân dân.
Sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống 3 tháng đạt 63,03 tỷ kWh, tăng 7,8% so với cùng kỳ.
EVN dự báo tình hình cung cấp than cho sản xuất điện có thể còn tiếp tục khó khăn. Ảnh: TTXVN.
Theo EVN, sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống tháng 3/2022 đạt 23,45 tỷ kWh, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2021. Lũy kế 3 tháng đạt 63,03 tỷ kWh, tăng 7,8% so với cùng kỳ. Trong đó tỷ lệ huy động một số nguồn chính từ thủy điện đạt 16,48 tỷ kWh, chiếm 26,1% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống; Nhiệt điện than đạt 28,37 tỷ kWh, chiếm 45% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống; Tua bin khí đạt 7,56 tỷ kWh, chiếm 12% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống.
Nguồn điện huy động từ năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối) đạt 10,01 tỷ kWh, chiếm 15,9% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống (điện mặt trời đạt 6,86 tỷ kWh, điện gió đạt 2,95 tỷ kWh). Còn điện nhập khẩu đạt 451 triệu kWh, chiếm 0,7% tổng sản lượng điện sản xuất toàn hệ thống.
Trong quý I/2022, điện sản xuất của EVN và các Tổng Công ty Phát điện (kể cả các công ty cổ phần) đạt 26,66 tỷ kWh, chiếm 42,29% sản lượng điện sản xuất của toàn hệ thống. Sản lượng điện truyền tải tháng 3/2022 đạt 18,34 tỷ kWh. Lũy kế 3 tháng đầu năm 2022, sản lượng điện truyền tải đạt 48,83 tỷ kWh, tăng 4,6% so cùng kỳ năm trước.
Cùng với đó, sản lượng điện thương phẩm toàn EVN tháng 3/2022 ước đạt 18,84 tỷ kWh, tăng 9,4% so với tháng 3/2021. Luỹ kế 3 tháng năm 2022 đạt 54,78 tỷ kWh, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2021.
Theo đại diện EVN, trong quý I/2022, EVN gặp một số khó khăn trong cung cấp than cho các nhà máy nhiệt điện với lượng than được cung cấp thiếu hụt 1,36 triệu tấn so với khối lượng trong hợp đồng. Do đó, đến cuối tháng 3/2022, nhiều tổ máy nhiệt điện than trong hệ thống đã phải dừng và giảm phát; các nguồn nhiệt điện than huy động thấp hơn kế hoạch là 1,365 tỷ kWh.
Video đang HOT
EVN đã chủ động làm việc với các đối tác cung ứng than trong nước nhằm tìm cách tháo gỡ các vướng mắc phát sinh và báo cáo các cấp có thẩm quyền xem xét, chỉ đạo.
Với nhận định quý II hàng năm là thời gian cao điểm của mùa khô và là thời điểm căng thẳng nhất trong năm về đảm bảo cung cấp điện toàn hệ thống, EVN đề ra mục tiêu đảm bảo vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện và thị trường điện, đáp ứng nhu cầu điện trong các tháng mùa khô quý II/2022.
Tháng 4/2022, sản lượng tiêu thụ điện bình quân ngày toàn hệ thống dự kiến ở mức 779 triệu kWh/ngày, công suất phụ tải lớn nhất ước khoảng 42124 MW (tương ứng tăng trưởng khoảng 5,3% so với cùng kỳ 2021). Trong thời gian tới, tình hình cung cấp than cho sản xuất điện có thể còn tiếp tục khó khăn, EVN kêu gọi người dân và các khách hàng sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.
Phát triển điện sinh khối và những thách thức
Mặc dù Chính phủ đã có các chính sách khuyến khích thúc đẩy năng lượng tái tạo; trong đó có phát triển điện sinh khối, nhưng đến nay tỷ lệ số lượng cũng như sản lượng từ các nhà máy điện sinh khối vẫn còn khiêm tốn.
Vậy điều gì đang làm cản trở sự phát triển của loại hình năng lượng này?
Còn quá khiêm tốn
Nhà máy điện sinh khối KCP-Phú Yên. Ảnh: Thế Lập/TTXVN
Theo Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng sinh khối trong sản xuất điện lên 1% vào năm 2020; 2,1% vào năm 2030 và 8,1% vào năm 2050.
Tuy nhiên, theo báo cáo tổng kết vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2021 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, công suất lắp đặt các nhà máy điện sinh khối đến hết năm 2021 là 325 MW, chiếm tỷ lệ 0,42% tổng công suất lắp đặt. Sản lượng điện năm 2021 của loại hình này đạt 321 triệu kWh, chiếm 0,13% sản lượng toàn hệ thống.
Dù Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích phát triển điện sinh khối; trong đó có cơ chế hỗ trợ giá ưu đãi (giá FIT) nhưng so với quy hoạch đặt ra, vẫn còn khoảng cách khá xa để đạt được mục tiêu trên.
Bà Phạm Hương Giang, Phó Trưởng phòng Phòng Năng lượng mới và Năng lượng tái tạo, Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương cho biết, Việt Nam là đất nước có nhiều tiềm năng phát triển điện sinh khối. Tính toán đến năm 2035, tiềm năng phát triển điện sinh khối từ trấu khoảng 370 MW; gỗ củi, phụ phẩm lâm nghiệp 3.360 MW, bã mía 470 MW, rơm rạ 1.300 MW, khí sinh học 1.370 MW. Tổng tiềm năng các loại hình này là hơn 9.600 MW.
Tuy vậy, loại hình năng lượng này đang vấp phải nhiều rào cản, từ sự thiếu ổn định và bền vững trong cung cấp nhiên liệu, giá nguyên liệu... đến các cơ chế khuyến khích điện sinh học chưa đủ hấp dẫn. Việt Nam cũng đã có một số chính sách thúc đẩy nhưng đến nay, số nhà máy và tỷ lệ tham gia của điện sinh khối vào hệ thống điện là rất thấp.
Theo TS. Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Giám đốc Trung tâm Năng lượng tái tạo, Viện Năng lượng, điện sinh khối vẫn ở mức "không đáng kể" là do những khó khăn trong việc kiểm soát nguồn nhiên liệu cung cấp cho nhà máy như: khả năng cung cấp nhiên liệu thiếu ổn định và bền vững; giá nhiên liệu thay đổi theo mùa vụ. Ngoài ra, vốn đầu tư ban đầu khá lớn là một trong các trở ngại lớn nhất, chưa kể cơ chế giá khuyến khích mua điện chưa hấp dẫn các nhà đầu tư.
Khuyến khích mạnh hơn
Theo dự thảo Quy hoạch Điện VIII, công suất lắp đặt năng lượng sinh khối đến năm 2030 của Việt Nam là 1.730 MW. Để mục tiêu này trở thành hiện thực, Việt Nam sẽ cần nhiều hơn những cơ chế khuyến khích, thu hút đầu tư vào loại hình năng lượng này.
Bà Phạm Hương Giang cho rằng, cần xem xét lại cơ chế chính sách để thu hút sự đầu tư cả về công nghệ và nguồn tài chính của nhà đầu tư tư nhân trong điện sinh khối. Có thể xem xét "thưởng thêm" cho các công nghệ tiên tiến, mang lại hiệu quả cao. Trong thời gian tới cần đánh giá lại giá FIT để biết xem cơ chế này đã thực sự hấp dẫn chưa, nếu chưa cần phải xem xét lại.
Theo đánh giá của chuyên gia nước ngoài, Việt Nam có nguồn lượng sinh khối đa dạng và rất lớn; trong đó, có nguyên liệu sau thu hoạch như bã mía, trấu rơm... Điện sinh khối là dạng năng lượng tái tạo có thể giúp Việt Nam đáp ứng phần nào cho năng lượng cho phát triển kinh tế-xã hội.
Ông Mathias Eichelbronner, chuyên gia quốc tế về năng lượng sinh khối cho hay, hiện nhiều nước trong khu vực đã có mức giá ưu đãi FIT với điện sinh khối rất tốt như: Thái Lan, Malaysia... Việt Nam cũng đã có cơ chế giá FIT, tuy nhiên vẫn là chưa đủ để khuyến khích loại hình năng lượng này phát triển.
Mức giá FIT của Việt Nam mới chỉ 8,47 cent/kWh (công nghệ không đồng phát), thấp hơn so với nhiều nước như: Thái Lan, Malaysia, Philippines. Với mức giá ưu đãi thấp, sẽ khó để các ngân hàng cấp vốn, bởi nhiều rủi ro trong đầu tư. Vì nếu giá FIT không thực sự tốt, thị trường tài chính không có đủ đòn bẩy, khuyến khích các ngân hàng sẵn sàng cung cấp nguồn vốn.
Theo chia sẻ của bà Lê Thị Thoa - Điều phối dự án Bảo vệ khí hậu thông qua phát triển thị trường năng lượng sinh học bền vững ở Việt Nam (BEM) của Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ), cơ chế giá FIT ở Việt Nam hiện tại chưa đủ hấp dẫn. Do vậy, để khuyến khích phát triển điện sinh khối nhằm tối ưu hóa việc sử dụng phế phụ phẩm nông lâm nghiệp, Chính phủ cần xem xét lại giá FIT. Đây cũng là một trong những hoạt động mà dự án BEM sẽ phối hợp với Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương thực hiện trong năm 2022.
Theo nhận định của các chuyên gia, năng lượng sinh học đã và đang tham gia ở hầu như tất cả các hoạt động phát triển kinh tế -xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện Việt Nam vẫn chưa có chính sách nào thực sự đủ khuyến khích loại hình năng lượng này.
Ông Lương Quang Huy, Cục Biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho hay, khó khăn đầu tiên để phát triển điện sinh khối là tài chính và công nghệ. Công nghệ không phải quá khó, Việt Nam có thể làm chủ, nhiều đơn vị đã và đang nghiên cứu, làm chủ công nghệ. Nhưng các chính sách của Chính phủ còn thiếu hấp dẫn và các điều kiện cho cơ sở cho đốt rác, thu hồi khí, phát triển điện sinh khối thì chi phí còn rất cao so với các nguồn năng lượng tái tạo khác như gió, mặt trời.... Cùng với đó, phải làm sao để có được những vùng nguyên liệu bền vững, chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư.
Hiện các dự án bảo vệ khí hậu thông qua phát triển thị trường năng lượng sinh học bền vững ở Việt Nam của Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức đã và đang thực hiện các hoạt động nâng cao năng lực cho các tổ chức tài chính để các tổ chức có thể xem xét việc cấp vốn thực hiện các dự án này.
Cụ thể, BEM sẽ tư vấn thiết kế các tiêu chí đánh giá hiệu quả tài chính các dự án đầu tư năng lượng sinh học và tư vấn thiết kế cơ chế tài chính dựa theo nhu cầu cấp vốn cho các dự án năng lượng sinh học và các nguồn vốn quốc tế, góp phần thực hiện các biện pháp bảo vệ khí hậu.
Cần khơi thông chính sách cho năng lượng tái tạo Theo các chuyên gia nhận định, để ngành năng lượng tái tạo tại Việt Nam phát triển, trong giai đoạn tới cần có khung chính sách cởi mở, minh bạch hơn nữa. Các đại biểu tham dự diễn đàn "Cơ chế thu hút đầu tư phát triển bền vững năng lượng tái tạo tại Việt Nam" chiều 26/11. Chia sẻ tại Diễn đàn...