Sám hối muộn màng của kẻ hiếp dâm, giết người, cướp của
Một mình nơi buồng giam cách biệt với thế giới, tôi mới hiểu thấm thìa giá trị của tự do, giá trị của sự sống – thứ mà tuổi trẻ tôi ngông cuồng không biết bảo vệ…
Lời bạt: Lưng hắn gù. Hắn đi chúi đầu về phía trước, lộ đôi vai xương xấu, gầy nhẳng, oằn nặng do phải đỡ thêm bộ khung lênh khênh. Hắn bảo, hình dáng đó là tàn tích của một tuổi thơ trĩu nặng, sớm phải lao động để bươn chải kiếm sống. Sinh năm 1990, gương mặt Triệu Văn Đông già hơn rất nhiều so với tuổi, đặc biệt kể từ khi bị tuyên án tử hình về tội cướp của, hiếp dâm, giết người và bị giam cách biệt trong buồng giam riêng của tử tù tại Trại giam T20 thuộc Công an tỉnh Gia Lai, hắn càng thêm già cỗi. Sự khô héo trong tâm hồn của Đông chẳng khác gì một xác cây khô cằn đợi ngày tàn lụi cận kề, Triệu Văn Đông đã có những phút trải lòng về quá khứ, về tuổi thơ, về những điều hắn để vuột mất khỏi tầm tay trong khi tuổi đời đang ở độ tươi đẹp nhất.
Oằn lưng gánh tuổi thơ nhọc nhằn
Theo lời cha mẹ tôi kể lại, quê gốc của chúng tôi là ở Hạ Lang – Cao Bằng, nhưng từ năm 1989, cả nhà tôi đã chuyển vào Đắk Lắk với khao khát xây dựng đời sống kinh tế mới. Từ thuở ấu thơ cho tới khi trưởng thành, mẹ luôn nhắc nhở tôi, dù có đi đâu cũng không được quên gốc tích của mình. Mẹ dạy tôi nhớ tôi là người con của Cao Bằng, là người dân tộc Nùng thứ thiệt. Tôi được “hành hương” về thăm quê bằng trí tưởng tượng qua những lời kể của mẹ. Mẹ kể Hạ Lang quê hương tôi là mảnh đất xinh đẹp, nhưng đất đai cằn cỗi, nhiều núi đá, không thuận tiện cho việc trồng trọt, chăn nuôi. Gia đình tôi tứ đời dựa vào hạt lúa, hạt ngô, đánh vật với cuộc sống chồng chất khó khăn, đến đời ba mẹ tôi vẫn nối tiếp lối đi ấy.
Ảnh minh họa
Trên tôi có 5 anh chị – 5 cái tàu luôn trong tư thế há miệng, lắp xắp nhau, đua nhau lớn, đua nhau ăn, bào đẽo mồ hôi nước mắt của ba mẹ. Không thể chứng kiến cảnh con cái đói ăn, đói chữ, cha me tôi quyết định di cư tới một vùng đất mới. Mẹ tôi kể lại, chúng tôi di cư giống như những đàn chim bay về phương Nam tránh bão, xa rời mùa đông lạnh giá, nhưng đến mùa xuân, đàn chim ấy được trở về quê hương, nơi chốn, còn chúng tôi, mải miết ra đi và không hẹn ngày trở lại. Nỗi lòng đau đáu giày vò ba mẹ tôi nhiều lắm. Nhưng vì cái nghèo, vì tương lai của các con, ba mẹ không có sự lựa chọn khác.
Đắk Lắk – vùng đất đỏ bazan màu mỡ được chọn là nơi ba mẹ đặt những viên gạch tạo dựng cuộc sống mới, kiếm kế sinh nhai, nuôi dạy các con thơ. Ngày ấy, dù đất đai chưa đắt đỏ như bây giờ, nhưng toàn bộ số tiền bán nhà ở Hạ Lang có được, ba mẹ tôi cũng chỉ mua được mảnh đất ven bìa rừng, trồng mì, trồng bắp nuôi anh chị tôi ăn học. Ngày ấy, người miền Bắc di cư vào Tây Nguyên làm ăn, sinh sống rất nhiều, hàng xóm xung quanh tôi đều là người dân miền Bắc vào, thành thử từ nhỏ cho tới khi trưởng thành, mấy anh em tôi vẫn giữ được chất giọng riêng của quê mình, hơi nặng một chút, nhưng rành mạch, rõ ràng.
Cả nhà chuyển vào đó được một năm thì mẹ sinh ra tôi, giữa biết bao bộn bề gian khó và thiếu thốn. Cái tên “Đông” nhằm khẳng định một điều không mấy vui vẻ trong gia đình, rằng nhà tôi quá đông anh em, dù thời điểm những năm 1989, 1990, Nhà nước đã ban hành chính sách kế hoạch hóa gia đình. Nhiều lần say rượu, trong những lời nhiếc móc của ba, tôi hiểu rằng mình là đứa con không được chào đón. Vì ba mẹ bị “vỡ kế hoạch” nên mới có sự hiện diện của tôi trong cõi đời này. Hình như cũng vì lẽ đó mà mẹ dành tình cảm đặc biệt cho tôi, luôn bênh vực tôi trước sự sỗ sàng, hung hãn của ba và sự ăn hiếp, bắt nạt của các anh chị lớn trong nhà.
Hiểu rõ nỗi ê chề, khổ sở của người dân không biết chữ, ba mẹ tôi cố gắng cho mấy anh em tôi ăn học. Các anh chị dừng ở mức biết hết các mặt chữ rồi cũng đành từ giã bảng đen, phấn trắng, thay vào đó là theo ba, theo mẹ lên rẫy làm cỏ bắp, cỏ mì. Tôi may mắn hơn các anh chị, được học lên lớp 6, sau đó cũng phải bỏ học, ở nhà làm lụng đỡ đần ba mẹ. Đó là năm gia đình tôi lâm vào tình cảnh nghèo khổ, mưa kéo dài, sâu bệnh phát triển, toàn bộ hoa màu của ba mẹ tôi bị sâu bọ phá hoại. Mẹ tôi xót của, công lênh cả một năm trời đổ xuống sông, xuống bể. Mẹ đứng giữa dẫy mì, ôm mặt khóc hu hu, át cả tiếng mưa rơi nặng hạt. Mấy anh em tôi đứng trong lều đứa bặm môi, đứa bấu chặt vào cánh cửa gỗ, nhìn ra ngoài rẫy, thấy mẹ nhỏ xíu, gầy guộc đứng chơ vơ, cô độc trong cơn mưa gió. Tôi lúc ấy mới hơn chục tuổi, sợ hãi nhìn mẹ mà bật khóc theo. Tôi ngây thơ sợ mẹ tôi bị ông trời “nuốt chửng” lấy, sợ mẹ tôi quy ngã không thể quay trở về lều với anh em tôi nữa.
Video đang HOT
Nhưng, quả thật, mẹ tôi là một người phụ nữ giàu khả năng chịu đựng và tiềm tàng sức sống. Lời mẹ nói trong bữa cơm tôi còn nhớ mãi: “Ngày mai mấy mẹ con, ba con mình lại lên rẫy trồng đợt củ mới. Chúng ta không thể gục ngã chỉ vì chuyện cỏn con này được”. Và đúng như những gì đã nói, mẹ tôi lại hăm hở lên rẫy, lên nương, cầm chiếc cuốc lật tung từng vạt đất, xới cỏ, mở ra một hi vọng mới về cuộc sống bớt nghèo cho mấy đứa con tội nghiệp. Nhưng, trời hay trêu ngươi kẻ khó, vụ mùa tiếp theo chúng tôi vẫn thất thu, đúng dịp có người chú họ ở Gia Lai rủ ba mẹ tôi về đó sinh sống, gây dựng lại cơ nghiệp. Ba mẹ tôi bàn bạc kĩ lắm, người chau mày, người thở dài cả đêm khuya, mấy anh tôi nín thở chờ đợi quyết định của họ. Rời khỏi mảnh đất Đắk Lắk, ba mẹ bịn rịn nhiều lắm, dù sao với bộn bề kỉ niệm.
Tận cùng nghèo khó thêm biết ơn tấm lòng người mẹ
Chuyển tới Gia Lai, gia đình chúng tôi vẫn sống ở ven rừng. Từ đường tỉnh lộ đi tới căn lều nhỏ của chúng tôi phải mất ít nhất một giờ đồng hồ nếu là đi xe gắn máy. Còn nếu đi bộ, hẳn sẽ còn mất nhiều thời gian hơn, vì đường vào nhà là con đường nhỏ do chúng tôi tự phát cây, mở lối. Lối đi là đất đỏ, mùa mưa, đất mút chặt bàn chân như kéo vít mọi nỗ lực di chuyển của người qua lại. Ngày đầu chưa quen, anh em chúng tôi ngã nhào như đập bị do trơn trượt bánh xe. Lần nào lần nấy về nhà, tay chân cũng xước xát, trầy da, rướm máu, mẹ tôi tìm đâu được thứ cây rừng nhai bỏm bẻm và dí vào vết thương của chúng tôi, nói rằng đó là cây cầm máu. Sau này, sau nhiều lần có kinh nghiệm đi đường rừng, ba mẹ tôi quyết định mua một sợi dây xích quấn vào bánh xe gắn máy. Nhờ sợi dây xích to bản quấn quanh lốp xe, chúng tôi có thể rón rén lái xe đi lại, và nỗi sợ hãi ngã xe, va đập như trước phần nào được xoa dịu. Chúng tôi gọi vui đó là “phát kiến vĩ đại” của những con người không chịu đầu hàng hoàn cảnh.
Cho tới giờ phút này, người tôi muốn nhắc tới nhiều nhất và cũng là người tôi yêu thương, xa xót nhất mỗi khi nhắc tới chính là mẹ. Trong kí ức tuổi thơ tôi, mẹ là một người đặc biệt. Nói về nỗi khổ của mẹ, thú thật, tôi không biết phải dùng từ ngữ nào để diễn tả. Nhà tôi không nhiều đất, vào Gia Lai cũng chỉ đủ đất trồng mì, trồng bắp. Mẹ tôi hôm nào cũng dậy từ 3 giờ sáng, tất bật việc nhà rồi lại cắp chiếc nón lên rẫy lượm nông sản người ta thu hoạch còn sót lại. Mẹ tôi mê mải, cặm cụi làm từ ngày này qua ngày khác, bất kể trời nắng hay mưa, đến mức những người ở đó ban đầu không hiểu chuyện, chê cười và nhìn mẹ tôi bằng ánh mắt dành cho người khuyết tật.
Họ giễu mẹ tôi là một người đàn bà tham lam, bù chi bút chút, keo kiệt nhưng họ chưa bao giờ đặt mình vào vị trí của mẹ, phải chèo chống một gia đình có 6 đứa con thơ và một người chồng hay ca thán, mắng chửi, sinh rượu chè cũng chỉ tại số nghèo. Mẹ không giải thích hay phân bua bất cứ điều gì, luôn lặng lẽ, khiêm nhường như thế kể từ khi tôi hơn chục tuổi đầu cho tới lúc trưởng thành. Tôi là con út của mẹ, được mẹ yêu thương và chiều chuộng nhất. Có lần mẹ nói với tôi, đáng lẽ ra mẹ phải nuôi tôi học cao hơn nữa, cho tôi cuộc sống hạnh phúc, đủ đầy hơn nữa, nhưng chính mẹ cũng bất lực, mẹ có lỗi với tôi. Lần thứ hai mẹ khóc sau lần đứng giữa rẫy mì bữa nọ là lúc tôi ốm liệt giường vì căn bệnh sốt vi rút và trong nhà không có lấy một xu, một đồng cho tôi chữa bệnh.
Sau này, các anh chị tôi lập gia đình và cũng có cuộc sống riêng. Có người trong số họ thay tâm đổi tính, ít khi ghé qua hỏi han ba mẹ, nhưng ba mẹ tôi vẫn vậy chẳng hề suy suyển một chút nào. Sáng sớm mẹ vẫn cầm chiếc nón rách tươm như xơ mướp lên rẫy mót củ, quả tới tận tối mịt mới trở về nhà. Mẹ quen với khổ sở, nên tôi cảm nhận được rất rõ niềm hạnh phúc của mẹ ánh ngời trong khóe mắt khi lần đầu tiên đưa mẹ 300 nghìn – số tiền tôi kiếm được nhờ công việc chăn vịt thuê cho một người ngoài phố. Chính vì đôi mắt vui mừng, hạnh phúc của mẹ, tôi càng cố gắng làm việc chăm chỉ hơn và kiếm được bao nhiêu tiền đều mang về gửi mẹ. Lớn hơn một chút, tôi làm thuê ở rẫy cà phê cho người ta, khi làm rẫy, khi phát cành, khi bón phân, lúc thu hoạch, nói chung là mùa nào việc nấy, quanh năm chẳng bao giờ hết việc.
Giống như biết bao bà mẹ nông dân khác, quen với khổ sở, sống nghèo túng ngấm sâu vào máu thịt, nên sự “tâm lý” dành cho con cái hầu như không có. Mẹ chưa bao giờ hỏi nguyện vọng của tôi, hỏi tôi thích làm gì, muốn theo đuổi nghề nghiệp như thế nào? Hiểu mẹ, nên tôi chưa bao giờ trách cứ và thường chủ động bày tỏ với mẹ nguyện vọng của tôi. Tôi học lái xe và đã đi phụ xe xuyên huyện ở Gia Lai, với mong ước thoát khỏi ruộng nương, nhưng sâu xa hơn, tôi ước ao có một ngày có thể lái xe đèo mẹ, trở về thăm mảnh đất Cao Bằng – nơi chôn rau cắt rốn của gia đình tôi, nơi mà tôi mới chỉ được biết qua hồi ức lấp lánh nhọc nhằn, hoang hoải của ba mẹ. Nhưng giấc mơ của tôi đứt gánh giữa đường, chỉ vì một phút cuồng dại, không làm chủ được bản thân.
“Có nằm mơ tôi cũng không bao giờ tưởng tượng mình độc ác đến thế”
Nhà tôi và nhà chị Thúy là hàng xóm của nhau. Chị Thúy sinh năm 1979, là một người có ngoại hình ưa nhìn. Chúng tôi thi thoảng gặp nhau vẫn chào hỏi, trò chuyện thân tình. Chị luôn coi tôi là cậu em trai tốt. Lợi dụng sự sơ hở trong thái độ của chị dành cho tôi, ngày 28/8/2009, từ sáng sớm tinh mơ tôi đã theo chân chị Thúy lên rẫy. Dĩ nhiên, tôi lặng lẽ bám theo chị. Khi tới giữa rừng cà phê, nhân lúc chị không để ý tôi đã lao tới quật ngã chị Thúy và xé bỏ quần áo trên người chị ấy. Người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể chống cự lại được sức vóc của gã trai 19 tuổi lên cơn thú tính.
Chị Thúy chống cự quyết liệt, gào thét dữ dội, nhưng giữa chốn đồng không mông quạnh ấy, kiếm đâu ra người tới cứu chị. Sợ sự việc bại lộ, tôi giết chị Thúy và lột toàn bộ số trang sức, tiền chị mang theo bên người. Sau khi gây án, tôi chạy thục mạng vào rừng, bừng tỉnh nhận ra bàn tay tôi đã nhúng máu. Tôi không biết mình đã chạy đi đâu, chỉ tới khi tối mịt, tôi mới chịu dừng lại.
Nhưng người ta đã nói “lưới trời lồng lộng, tất có báo ứng”, hành vi tội lỗi của tôi không qua nổi mắt cơ quan điều tra, và tôi bị bắt không lâu sau đó, ngay khi xuất đầu lộ diện. Lúc tôi bị cáo buộc 3 tội danh “giết người”, “hiếp dâm”, “cướp của”, mẹ tôi gào khóc, một mực cho rằng cơ quan chức năng bắt nhầm người. Mẹ tôi nức nở, giọng lạc đi: “Cán bộ nhầm rồi, thằng Đông nhà tôi làm sao có thể phạm tội tày trời ấy được. Nó ngoan lắm, nó làm ra bao nhiêu tiền đều đưa cả cho tôi. Tấm áo rách nó không biết sắm sanh, đôi dép đứt nếu mẹ không mua thì cũng mặc kệ, lành hiền, củ mỉ thế làm sao giết người được?”. Khi tôi lặng lẽ cúi đầu nhận tội và đi theo các cán bộ điều tra về nhà tạm giam của Công an tỉnh Gia Lai, cũng là lúc mẹ tôi ngã quỵ xuống nền đất nện trước lều. Có lẽ, giây phút đó, mẹ đã cảm nhận được tôi rời xa vòng tay mẹ vĩnh viễn.
Tôi đã trải qua hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Với tội danh của mình, tôi lường trước được cái án phải mang. Còn nhớ, trong phiên tòa ấy, tôi mỏi cổ dõi về phía sau, tìm kiếm bóng dáng người thân. Mẹ tôi. Ba tôi. Các anh chị tôi. Không một ai xuất hiện. Thời điểm ấy tôi tột cùng hoang mang, sợ hãi. Cảm giác bị bỏ rơi, bị gạt khỏi gia đình, bị quay lưng bức bách cả tâm trí. Nhưng, sau đó, tự tôi trả lời được tất cả những câu hỏi chất ngất trong lòng. Ba mẹ tôi không tới vì ông bà đã già rồi, họ quá nghèo khổ để có thể lo chi phí tàu xe đi lại. Nhưng, tôi trách các anh chị tôi lắm, dù tôi có là kẻ tội đồ, nhưng vẫn cùng chung giọt máu với các anh chị. Từ ngày ra ở riêng, họ lạnh nhạt với tôi và ba mẹ. Tình cảm anh em ruột thịt cứ vậy mà trở nên xa cách, nhạt nhòa. Tôi bị tuyên án tử hình – dấu chấm hết cho một kẻ ngông cuồng, hủy hoại cuộc đời mình trong gang tấc.
Sau khi bị tuyên án, các cán bộ giải tôi về giam giữ ở Trại T20 thuộc Công an tỉnh Gia Lai. Thời gian đầu, do tâm lý không thông, nghĩ rằng chẳng có bất cứ cơ hội nào để sống, tôi tiêu cực, thường xuyên bỏ bữa, đêm đêm gào thét, phá rối trật tự buồng giam. Nhưng, sau nhờ các cán bộ quản giáo động viên, phổ biến nội quy của trại và hướng dẫn tôi viết đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch nước, tôi nhận ra rằng mình vẫn còn cơ hội sống, cho dù nó rất mong manh. Tôi dạy cho mình một suy nghĩ: Nếu còn có thể hi vọng thì hãy cứ hi vọng, chẳng ai có quyền cấm cản ước mơ của mình.
Nhưng, kỳ vọng của tôi được ân xá của Chủ tịch nước, thoát khỏi tội chết tôi cũng không quá lớn lao, bởi với tội danh của mình, tôi hiểu rằng cơ hội dành cho mình vô cùng nhỏ nhoi. Hi vọng quá nhiều rồi sau không đạt như kỳ vọng, sẽ dẫn tới hố sâu của tuyệt vọng. Chỉ biết rằng, tôi đang trân trọng mỗi giây phút đi qua trong đời. Vào tù, một mình nơi buồng giam cách biệt với thế giới, tôi mới hiểu thấm thìa giá trị của tự do, giá trị của sự sống – thứ mà tuổi trẻ tôi ngông cuồng không biết bảo vệ. Có thể, sẽ có một ngày tôi phải vĩnh biệt cuộc đời này. Có thể là ngày mai, ngày kia, hoặc một ngày nào đó không quá xa… nếu như đơn xin ân xá gửi lên Chủ tịch nước của tôi không được chấp thuận, nhưng qua đây, tôi muốn gửi một lời tri ân tới cuộc đời, tới mẹ của tôi.
Tôi từng là niềm tự hào của mẹ, là đứa con được mẹ yêu thương nhất, gần gũi nhất, nhưng chính tôi, chưa kịp báo hiếu cho mẹ lúc xế chiều, lại mang tới cho mẹ nỗi đau không bao giờ gột rửa được. Tôi không bao giờ trách mẹ vì mẹ không tới dự phiên tòa xét xử tôi, cũng chưa từng ghé vào trại thăm nuôi tôi. Trái lại, tôi là đứa con bất hiếu. Tôi càng đau xót hơn nghĩ đến mẹ ngày càng già yếu và căng mình trong muôn vàn khó khăn cùng tai tiếng về đứa con trai sát nhân, tàn ác. Làm sao tôi có thể tạ lỗi với mẹ đây?
Không hiểu sao từ ngày bị bắt, tôi hay mơ màng về những con đường dốc cao thẳng đứng, chơi vơi, bồng bềnh giữa ngàn mây ở Hạ Lang quê hương tôi – nơi tôi chưa từng được đặt chân đến. Đó cũng là điều hối tiếc nhất của một kẻ tử tội như tôi: không hề biết mặt quê hương, nơi chốn của mình, và có thể khi chết sẽ nằm lại nơi đất khách xa xôi này. Quản giáo của tôi bảo tôi hãy cứ mơ đi, biết đâu phép màu xuất hiện, quê hương xa xôi kia trở thành nguồn động lực lớn lao để tôi không ngừng mơ ước thì sao. Cán bộ nói đúng.
Người ta thường bảo, đối với một tử tù, một mình trong bốn bức tường giam chật chội sẽ hoàn toàn mất các ý niệm về thời gian, lấy ngày làm đêm, đêm làm ngày, vật vờ như con “ma sống”. Nhưng với tôi lại khác, tôi cảm thức rất rõ về từng giây phút trôi qua. Có đôi khi chỉ là tiếng gà gáy sáng xa xôi từ buôn làng nào đó lạc vào sau song sắt, đánh thức giấc ngủ chênh vênh của tôi, tự khắc như có một luồng điện chạy dọc cơ thể, tôi bừng tỉnh và tự nhủ thầm: “Được sống thêm một ngày”. Một ngày sống đối với kẻ tử tù như tôi chẳng gì có thể so sánh được. Và biết bao buổi sớm bình minh đó, tôi thầm cảm ơn cuộc đời đã cho tôi thêm một ngày được tồn tại trên cõi đời và tiếp tục hi vọng về một kết cục tốt – đẹp – nhất cho bản thân trong hoàn cảnh lao lý này.
Tôi của hôm nay đã khác rất nhiều “tôi” của 3 năm trước. Tôi biết lắng lòng để nghĩ suy, chiêm nghiệm về cuôc đời, về mẹ, về những người thân. Và càng ngộ ra biết bao điều tươi đẹp của hồi ức, tôi lại càng nuối tiếc về hiện tại và tương lai. Một lời cuối cùng, chỉ cầu mong mọt kết cục tốt đẹp nhất sẽ đến với tôi, và trong tôi, ngọn lửa hi vọng vẫn bập bùng soi rọi.
Kết
Ai đó từng nói rằng: “Nhìn về phía mặt trời, bóng tối đã bị đẩy lùi về phía sau lưng”. Qua cuộc trò chuyện cùng Triệu Văn Đông – kẻ tử tù phạm 3 tội danh nghiêm trọng, chí ít tôi cảm thấy không quá nặng nề. Lòng hắn u uẩn, nhưng tư tưởng hắn đã được đả thông. Hắn bị tuyên án tử và không biết cái chết sẽ đến vào lúc nào, nhưng hắn không ngừng hi vọng về một cơ may được sống. Số phận của Triệu Văn Đông không biết sẽ ra sao ở tương lai, nhưng bản án của hắn là lời cảnh tỉnh dành cho tất cả cho những ai không biết giữ mình, để phần con lấn át và ngự trị phần người. Sai lầm ấy sẽ phải trả giá cái giá rất đắt, thậm chỉ bằng chính mạng sống của mình, đó là luật nhân – quả ở đời.
Theo ANTD
Ai dắt em đi qua nỗi đau? (P.16)
Hoàng Minh vội cuốn lấy đôi môi cô... để tìm về sự ngọt ngào của ngày tháng cũ
Sài Gòn lấp lánh ánh điện. Buổi tối thứ bảy đông đúc xe cộ, chúng chạy không ngừng nghỉ và lao đi vun vút. Sau những giây phút mệt mỏi tưởng chừng như không thể gượng dậy thì Tâm Lan đã được một bà lao công tốt bụng dìu tới chiếc ghế sô pha và mang cho cô một ly nước mát lạnh.
- Cô Tâm Lan, mọi người đã về hết cả rồi. À, còn một chuyện nữa, tôi thật sự xin lỗi nếu như cô nghĩ tôi là người nhiều chuyện.
- Bác cứ nói đi ạ.
- Tôi thấy điện thoại di động của cô ở bàn làm việc liên tục đổ chuông. Có lẽ cô nên về sớm với gia đình, hẳn là có rất nhiều người đang mong ngóng cô.
- Con ơn bác nhiều!
Cô nhoẻn miệng cười, bước chân đang tiến về phía cửa bất chợt khựng lại trước câu nói của bác lao công.
- Tâm Lan! Chắc cô đang rất buồn. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra với cô nhưng hãy nhớ giữ gìn sức khỏe nhé!
- Bác vẫn luôn quan tâm tới con như vậy!
- Ừ! - Người lao công gật đầu. - Cô Tâm Lan giống như con gái của tôi vậy, tiếc là nó đã vĩnh viễn rời xa tôi sau một trận tai nạn bất ngờ vào đầu năm ngoái. Tôi vẫn không thể nào quên được nỗi đau đó vì mình đã không thể bảo vệ đứa con duy nhất của mình.
Nghe nỗi niềm của người phụ nữ tóc đã pha sương, Tâm Lan không kìm được những giọt nước mắt. Cô quay lại nắm chặt tay bác lao công an ủi...
- Về đi! Mọi người đang chờ con.
Nói xong, bác lao công thả bàn tay Tâm Lan ra, bà nhanh tay kéo khẩu trang đến ngang mặt và cúi lưng ghì mạnh cây lau nhà xuống sàn. Mùi nước tẩy sàn lại nồng lên, phả vào mũi cô đầy khó chịu.
- Con chào bác. Bác về đi đường cẩn thận nghen!
...
Tiếng điện thoại bất chợt đổ chuông, cô vội vã đẩy cửa phòng. Hoàng Minh đang gọi cô. Cô quyết định không nghe máy mà từ từ xếp thư của độc giả cần phải phản hồi vào ngày đầu tuần bỏ sang một ngăn túi xách. Có lẽ tối nay, cô thực sự cần một đên tỉnh táo để làm việc. Bởi có trời mới biết, chuyện gì sẽ xảy ra nếu như cô tiếp tục tái phạm lại sai lầm này?
Tâm Lan gọi điện về nhà với lý do phải làm tăng giờ vào cuối tuần. Bà Xuân cảm thấy lo lắng vì công việc của con gái... Cô cười nhỏ: " Sao mẹ cứ coi con như con nít thế này? Con đã trưởng thành và tự chăm sóc được bản thân rồi mà mẹ".
Cô loay hoay lấy chiếc điện thoại đang réo inh ỏi phát ra từ chiếc túi xách. Màn hình sáng trắng hiện lên dòng chữ: "Ông xã". Trái tim cô lại đập thình thịch... cô đang tự hỏi có nên nghe máy Hoàng Minh hay không? Hoặc anh sẽ giận dữ vì bây giờ đã hơn chín giờ tối rồi. Hoặc anh cũng có thể dịu dàng hỏi thăm chuyện gì đã xảy ra với cô? Cuối cùng, cô quyết định không nghe máy và bước rất nhanh về bãi đậu xe...
Bỗng một bàn tay đã kéo cô lại khi bãi đậu xe chỉ còn cách đó chừng mười mét. Người cô nhẹ bẫng như cọng cỏ và bị kẻ "bí mật" bế bổng lên như nhổ bật cả gốc. Sau vài giây, cô đã bị tống vào một chiếc xế hộp đen, đôi môi khô chưa kịp thốt lên lời thì cô đã bị ép ngược trở lại bằng nụ hôn gấp gáp, chà xát... Không ngọt ngào, không êm dịu, chỉ có những giọt nước mắt của hai người tuôn trào...
Sau nụ hôn dài, Tâm Lan đẩy Hoàng Minh ra nhưng không được. Vòng tay anh siết quá chặt, mùi thơm nồng đặc trưng vốn luôn mê hoặc càng làm cô khó có thể dứt khỏi anh. Nhưng cô thấy ngạt thở, cô đang thiếu oxi trầm trọng. Đứa bé trong bụng cô cũng cần phải có oxi. Cô cúi đầu, từ từ luồn ra khỏi vòng tay anh.
- Đừng thế nữa. Hãy ngồi bên anh... một chút thôi!
Hoàng Minh kéo cô lại. Dường như anh đang hành động một cách bản năng. Những tia sáng yếu ớt của đèn đường và những dòng xe cộ lướt đi chiếu xuyên qua lớp kính càng làm nét mặt cô trở nên yếu ớt.
- Em thấy khó thở. Em cần ra ngoài.
Hoàng Minh nhìn cô. Những ngón tay chai sạn của anh đưa lên khuôn mặt đã có phần tiều tụy hơn trước và không khỏi xót thương.
Hoàng Minh lái xe vào bãi đậu rồi cùng Tâm Lan đi bộ trên đoạn đường dài thành phố. Anh hỏi: "Chúng ta sẽ cùng ăn đêm chứ?". Cô gật đầu rồi lại vội lắc đầu. Anh mỉm cười và nhìn cô bằng ánh mắt dịu dàng nhất có thể. Anh hỏi lại một lần nữa. Cô chắc chắn là "không" rồi bước lên trước một bước. Anh cố gắng đi sát phía sau cô, bóng anh rọi trên lòng đường trùm lên cả bóng cô đang lững thững bước.
- Anh về đi.
Hoàng Minh không trả lời. Anh nhẹ nhàng gỡ lỏng từng ngón tay cô đang nắm chặt vào nhau và luồn từng ngón tay mình vào tay cô. Hai người cứ thế lặng im đi trên con đường vắng. Đi được một lúc, anh đề nghị được cõng cô. Cô gật đầu, cô không muốn từ chối một điều gì từ phía anh vì biết đâu chỉ một lát sau thôi, Kiều Thanh sẽ cướp anh rời xa cô mãi mãi.
Sống mũi cay xè và nước mắt vẫn nối đuôi nhau trào ra, cô lặng lẽ tựa đầu vào bờ vai anh. Những sợi tóc thơm khẽ chọc vào gáy anh nhồn nhột. Anh khẽ nhúc nhích, bầu má và làn da mịn màng của cô tỏa ra khiến anh như bị thôi miên trong tức khắc. Anh giữ nguyên tư thế đó trên quãng đường tiếp theo. Từng bước chân chậm rãi của anh đi theo lối con đường mòn quen thuộc.
- Tâm Lan! Đừng khóc nữa!
Nước mắt Tâm Lan thấm qua lớp áo sơ mi, ngấm vào da thịt anh lạnh buốt. Anh siết chặt bàn tay cô mà nghe tim mình đau nhói. Biết bao đêm trôi qua, mỗi lần cô tủi thân ôm con gái ngủ mà khóc một mình thì anh đang ở bên ai? Biết bao ngày trôi đi chậm chạp, cô mệt mỏi với công việc nơi công sở, rồi chiều về lại trông nom bé Nguyên Thảo như mọi ngày?... Anh nghẹn lòng mỗi khi nhớ lại quãng thời gian trước đó. Giá như, người ta có thể đi lội ngược thời gian trở về quá khứ...
- Đừng khóc nữa. Anh đang ở ngay bên cạnh em cơ mà.
- Em đã nghĩ là chúng ta sẽ chẳng còn một buổi tối cuối tuần nào cùng đi dạo với nhau như thế này nữa.
Câu nói của Tâm Lan vừa dứt thì bước chân anh cũng ngừng lại. Cô nhấc đầu khỏi vai anh, đôi mắt ầng ậc nước ngước nhìn theo. Hoàng Minh và cô đang đứng trước ngôi nhà chung của hai người.
- Cho em xuống đây được rồi. Anh về đi kẻo chị ấy lo lắng.
Tâm Lan tự trườn người xuống. Mất vài giây, cô mới đứng vững được. Cơn gió đêm cuộn thổi làm mái tóc đen dài bay lòa xòa phía trước. Hoàng Minh giơ tay vuốt những lọn tóc sang hai bên vành tai. Bàn tay anh vẫn giữ nguyên ở vị trí đó, thật lâu và cứ im lặng nhìn cô như thế.
Chỉ có anh mới có thể đem đến cho cô sự thỏa mãn trong niềm hạnh phúc nối dài bất tận... (Ảnh minh họa)
Con ngươi màu hổ phách đẹp lạ chiếu những tia nhìn ấm áp khiến đôi vai Tâm Lan run lên bần bật. Cô cảm nhận rõ những giác quan của mình đang cùng lúc khuấy động dữ dội. Chúng phản đối thái độ cư xử cố tỏ ra lạnh lùng của cô. Chúng gào lên ráo riết, chúng la hét như những con thú hoang đang gồng mình lên phát ra tiếng gầm vang vọng giữa chốn rừng già... Tất cả sự đổ vỡ, thôi thúc, oán hờn đó chỉ xảy ra trong lòng một cách câm lặng. Chúng hoàn toàn không phát ra một tiếng động nhỏ nên chẳng mấy ai hay. Nhưng không phải vì thế mà anh không hiểu chuyện gì đang xảy ra với cô: những tiếng vỡ lòng, sự đấu tranh trong tâm tưởng, cả việc mang lí trí lấn át những ước muốn của trái tim...
Hoàng Minh sát đầu lại và hôn nhẹ lên trán cô. Giọng anh trầm hẳn xuống:
- Để anh mở cửa cổng.
Anh dắt tay cô bước vào trong sân nhà. Họ cùng đặt từng bước chân chậm rãi lên những bậc hiên tối. Luồng gió đêm thổi tới bị chặn bởi những gốc cây lớn và vườn hoa cạnh nhà. Một cảm giác ấm áp và dễ chịu hơn như ve vuốt và quấn quýt lấy hai người.
Tâm Lan khom người xuống, tra chìa khóa vào ổ. Ổ khóa bị han gỉ, cô mím môi xoay mạnh cổ tay.
Hoàng Minh giúp cô mở cửa. Anh tìm ổ điện và nhấn công tắc ngay lối cửa ra vào. Một cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng anh. Những lớp bụi phủ lên bộ ghế sô pha hay mặt bàn kính khiến anh liên tưởng đến căn nhà bị bỏ hoang. Đến những chậu cây trang trí ở bệ cửa sổ với lớp đất khô cằn rữa ra trông rõ từng vết rạn nứt.
Tâm Lan mở cửa sổ, gió ào vào thổi tung tấm ri-đô, cả mái tóc cô cũng xõa tung và bay lại phía sau để lộ một khoảng bờ vai trắng muốt. Chiếc đầm trắng bay dán sát vào người cô tạo nên một vẻ mảnh mai, thanh khiết. Cô đứng lặng thinh, và không còn khóc.
Dường như bao nhiêu nước mắt đã cạn khô cả rồi.
Hoàng Minh tiến tới và ôm ghì lấy Tâm Lan từ phía sau. Cô né tránh sang bên nhưng bàn tay anh đã kịp giữ lấy đôi vai gầy. Anh xoay người cô lại và đặt môi xuống gò má nhợt nhạt đã được gió hong khô những dòng nước mắt. Đôi môi anh lướt qua đôi môi khô ráp đang cố mím chặt của cô. Anh siết chặt vòng tay ôm, cố cuốn lấy đôi môi cô để tìm về sự ngọt ngào của ngày tháng cũ, để tưới những yêu thương tưởng chừng như không còn nguyên vẹn.
Nhớ đêm trăng ngày nào, họ ao ước bờ môi mình được mềm lại bởi những thương yêu, bởi những vòng tay ôm siết nồng nàn. Thì giờ đây, họ lại hoang mang, sợ hãi, run rẩy... Liệu rồi cảm giác đắm say trong đêm nay có vội vã bỏ đi khi bình minh ngày mai ập tới?
Cô đưa tay ôm lấy vòng eo Hoàng Minh. Anh đã từng là chồng cô và bây giờ cũng thế. Vậy mà thời gian xa cách đã khiến cô có cảm giác như mình bị chồng ruồng bỏ từ rất lâu. Cô lúng túng, cô run rẩy như kẻ đang vụng trộm với người tình. Rất lâu sau, đôi môi cô mới dám hé mở đón nhận nụ hôn nồng nàn ấy.
Tâm Lan ngước nhìn anh, đôi mắt nâu ngân ngấn nước làm cô hoảng sợ. Anh cúi đầu hôn lên đuôi mắt cô, một giọt nước mắt đậu xuống chân mi cong dài. Những ngón tay cô đưa lên chạm lấy khuôn mặt anh. Cô nhớ vầng trán cao, sống mũi thẳng, những cọng râu lún phún đang nhô lên hay vài cọng tóc khô đâm vào da cô nhồn nhột, ran rát. Nỗi nhớ về anh chưa bao giờ dập tắt trong cô, niềm yêu thương hòa mình vào những khát khao mãnh liệt cùng anh cũng chưa bao giờ vơi đi dù chỉ là thoáng qua trong ý nghĩ.
Má anh dụi dụi nhẹ vào cổ cô, bàn tay anh giữ chặt hai bên vai cô. Cái đụng chạm ngẫu nhiên vào khoảng vai để trần làm da cô chợt nóng bừng, nhịp đập của trái tim như điên loạn. Cô buộc mình phải nhích người ra một chút rồi tách hẳn khỏi vòng tay ôm của anh. Cô cảm thấy khó thở nên đã nhanh chân lẩn trốn về phía phòng ngủ. Giọng cô như thì thầm:
- Anh nghỉ sớm đi. Sáng mai chúng ta còn phải về ngoại đón bé Nguyên Thảo nữa. Nếu không sẽ trễ mất buổi dự tiệc cưới của chị Hoàng Ngân.
Hoàng Minh gật đầu rồi đi theo sau Tâm Lan về phòng ngủ. Anh ngồi xuống bên cạnh cô. Cô với tay mở nhạc, những bản tình ca lãng mạn và da diết buồn. Cô đưa cái nhìn mệt mỏi về mọi thứ xung quanh. "Chiếc giường này bao lâu rồi mới đón nhận hai chủ nhân của chúng quay trở lại?" - Nghĩ tới đấy thôi, đôi mi cong vội vàng cụp xuống.
Anh hôn lên vầng trán thông minh của cô, lướt xuống cằm và môi hôn đậu trên chiếc cổ trắng cao. Cô ngả vào vòng tay anh, nuốt nghẹn. Bởi khứu giác của người phụ nữ mang bầu rất nhạy bén, nhất là trong hoàn cảnh này, cô như mê mải tìm lại cảm giác đã bị đánh mất từ rất lâu.
Hoàng Minh cởi hẳn chiếc áo sơ mi rồi vắt lên chiếc ghế gỗ ngay cạnh bàn trang điểm của Tâm Lan. Anh đỡ tấm lưng mảnh và đặt nhẹ người cô nằm xuống. Đôi tay anh lần kéo theo đường khóa váy, lớp váy bung đến đâu, môi hôn anh lướt nhẹ tới đấy. Nụ hôn đầy rực lửa đam mê lướt dọc theo đường cong cơ thể của người vợ. Hơi thở nóng hổi từ anh phả lên lớp da tưởng chừng như mất hết cảm giác khiến Tâm Lan thoáng rùng mình. Những ngón tay mơn man đôi vai trần, tới cơ thể ngọc ngà đầy sức sống, cho đến vùng bụng hơi nhô cao. Anh hơi sững người và nhìn Tâm Lan dò xét dưới ánh sáng mờ ảo của đèn ngủ. Đôi mắt cô vội lảng tránh và nhanh tay kéo tấm chăn mềm phủ lên vùng bụng.
- Em có tin vui phải không, Tâm Lan? - Hoàng Minh ghé sát tai cô, thì thào hỏi.
- Em ba mươi rồi chứ ít à? Ngồi làm việc nhiều và lười vận động nên bụng chảy xệ chút thôi.
Tâm Lan tìm một lý do để đánh lừa anh. Anh lặng lẽ mỉm cười rồi gạt tấm chăn mềm ra khỏi người cô, bàn tay anh bắt đầu mơn man lên những vùng da thịt nhạy cảm thơm mát. Trong ngọn lửa yêu thương dữ dội qua nhiều ngày nguội tắt, cô cũng chẳng kịp đẩy anh ra khỏi vòng tay khao khát của mình...
Chưa bao giờ Tâm Lan trở nên như thế, một sự ham muốn dồn dập tràn ngập cả cơ thể và tâm hồn cô. Cô muốn có anh trọn vẹn đêm nay mà không bị ai quấy rối. Cô muốn được tan chảy trong những cái vuốt ve dài bằng những cử chỉ chậm chạp từ đôi tay ấy. Bởi cô biết, chỉ có anh mới có thể đem đến cho cô sự thỏa mãn trong niềm hạnh phúc nối dài bất tận...
Những môi hôn nồng nàn suốt đêm sưởi ấm hai tâm hồn tưởng chừng như đã chết úa. Những tiếng rên xiết miên man hết sức nhẹ nhàng đánh thức cả hai trái tim tìm về bên nhau sau nhiều ngày đi lạc. Những khao khát yêu thương càng không thể vùi chôn khi cả hai đang ước muốn...
Suốt đêm, cô nghe thì thào tiếng xin lỗi hòa cùng tiếng yêu thương
Biết đâu, cơn mưa đêm nay sẽ đưa cả hai cùng nhìn thấy cầu vồng vào sáng sớm mai khi thức dậy...
Theo Bưu Điện Việt Nam
Người yêu bắt tôi phải "bồi thường" tuổi xuân! Người ta vẫn thường nói "Không có tình yêu vĩnh cửu, mà chỉ có giây phút vĩnh cửu của tình yêu". Điều đấy đã thực sự đúng với tôi lúc này. Từ khi gặp người con gái ấy tôi mới hiểu những thứ tình cảm giữa tôi và những cô gái trước đây chỉ là sự ngộ nhận, chỉ là thứ na ná...