Sài Gòn từng nhìn cuộc xâm chiếm Hoàng Sa thế nào?
Tôi đã nghĩ là Trung Quốc chiếm hộ rồi trao lại cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều người trong Nam vẫn nghĩ những người cộng sản Trung Quốc và những người cộng sản miền Bắc là anh em với nhau.
Tuanvietnam xin giới thiệu cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu bản đồ Nguyễn Đình Đầu về quá trình xâm chiếm Biển Đông của Trung Quốc.
Lợi dụng giải giáp quân Nhật, Trung Quốc bắt đầu chiếm Biển Đông
Theo nghiên cứu của ông, các thế hệ cầm quyền ở Trung Hoa lục địa đã bắt đầu quá trình chiếm hữu Biển Đông từ bao giờ?
Có lẽ câu chuyện chiếm các hòn đảo trên Biển Đông, như họ đang chiếm giữ bây giờ, thực tế chỉ bắt đầu khi Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, với tư cách là một nước trong phe Đồng Minh, giải giáp quân đội Nhật chiếm đóng trên đó. Và, từ đó, để hợp pháp hoá việc chiếm hữu, họ đã cho vẽ trên bản đồ cái “đường lưỡi bò”.
Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 có dính đến Á Đông, bởi Nhật Bản ở Á Châu trong phe trục, nên ở Á Châu phe Đồng Minh đã kéo Trung Quốc (Trung hoa Dân quốc), tuy là nước lớn nhưng non yếu, tham gia liên minh kháng Nhật. Chính vì vậy, Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch trở thành một trong 5 cường quốc, sau khi Chiến tranh Thế giới Thứ Hai kết thúc, thuộc bên chiến thắng.
Trước đó, khi Pháp xâm chiếm nước ta, họ đã điều đình với triều đình Nhà Thanh để quốc gia phương Bắc này thôi không coi Việt Nam là nước phải triều cống. Đổi lại, Nhà Thanh đã lợi dụng đòi cắt một số phần đất ở phía Bắc của chúng ta. Tuy rằng hiện nay chúng ta vẫn công nhận cái biên giới lịch sử do Pháp và Nhà Thanh quyết định với nhau, nhưng phải khẳng định rằng khúc đó mất khá nhiều.
Tại sao ông lại đoan chắc như vậy?
Tôi đã nghiên cứu lịch sử phát triển của dân tộc này, mà ta quen gọi là Nam Tiến. Đặc biệt là từ 1611, khi Nguyễn Hoàng đặt ra phủ Phú Yên. Cho đến 1698, các Chúa Nguyễn nâng diện tích nước mình lên gấp đôi.
Nhưng chính trong thời gian nội chiến, khoảng 300 năm, nước mình rất là phát triển. Nghiên cứu các bản đồ đó với các bản đồ sau này, nước ta thời đó to hơn nước ta trên bản đồ Đông Dương của người Pháp. Chúng ta phải tôn trọng biên giới lịch sử, nhưng trước khi có biên giới lịch sử ấy, nước ta to hơn nhiều.
Đến năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng, phe Đồng Minh phân công quân đội Tưởng Giới Thạch giải giáp quân đội Nhật ở bắc vĩ tuyến 16, còn Anh ở nam vĩ tuyến 16. Tưởng Giới Thạch nhân cơ hội đó thực hiện mưu đồ chiếm các hòn đảo trên Biển Đông, bởi vì tham vọng chiếm lãnh thổ trên đất liền không thực hiện được.
Lý do?
Lúc đó, người Pháp đã thoả thuận với người Anh để quay trở lại Đông Dương, và tiếp tục chiến tranh.
Sau cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nước Việt Nam đã bị tạm chia làm 2 phần, theo Hiệp định Geveva 1954. Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam Cộng Hoà quản lý. Trong khoảng thời gian đó, việc thực thi chủ quyền của chính quyền Việt Nam Cộng hoà như thế nào?
Ngay từ đầu, ông Ngô Đình Diệm có ý thức rất lớn về lãnh thổ, lãnh hải. Ngay khi lên cầm quyền, năm 1956 ông Ngô Đình Diệm đã thực hiện ngay việc thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa, thay thế cho Chính phủ Bảo Đại. Ông cho quân đội khai thác phân chim ở Hoàng Sa. Cùng năm đó, quân đội Sài Gòn cũng đến đóng ở Trường Sa.
Hãy quay ngược lại thời kỳ chiến tranh chống Pháp, khi cụ Hồ Chí Minh còn ở An toàn khu, có một hội nghị quốc tế ở San Fransisco vào năm 1951. Thủ tướng của chính quyền Bảo Đại, do Pháp bảo trợ, là Trần Văn Hữu công bố Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam từ lâu đời. Không có nước nào phản đối, kể cả Trung Quốc. Tức là chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa được công nhận theo luật pháp quốc tế.
Đến đầu năm 1973, hiệp định Paris được ký, để Mỹ rút quân, và thực hiện hoà giải hoà hợp dân tộc. Năm sau, Trung Quốc chiếm nốt nhóm đảo Hoàng Sa của quần đảo này. Rồi sự kiện đầu năm 1988, khi họ lại tiếp tục dùng vũ lực chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa thì chắc anh rõ rồi, tôi không phải nhắc lại nữa.
Tôi từng nghĩ Trung Quốc chiếm Hoàng Sa cho Bắc Việt Nam
Hồi năm 1974, trong Sài Gòn nhìn nhận cuộc xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc như thế nào?
Riêng tôi, tôi nghĩ là Trung Quốc chiếm hộ rồi trao lại cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiều người trong Nam vẫn nghĩ những người cộng sản Trung Quốc và những người cộng sản miền Bắc là anh em với nhau, giữa những người cộng sản với nhau tình thương còn hơn giữa những người cùng một nước, tức là tình đồng chí còn cao hơn tình đồng bào.
Thế đến bao giờ thì ông mới ngã ngửa ra rằng Bắc Kinh họ cướp Hoàng Sa không phải cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà?
Khá lâu. Giải phóng xong rồi, dân chúng vẫn không được thông tin công khai là Trung Quốc chiếm Hoàng Sa của Việt Nam. Chỉ đến khi xảy ra hiệp định hữu nghị giữa Việt Nam và Liên Xô, và cuộc chiến biên giới phía Bắc đầu năm 1979, thì lúc đó tôi mới hiểu rõ mối quan hệ phức tạp giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Video đang HOT
Lúc bấy giờ tôi mới hiểu thực ra Trung Quốc đã quay lại chủ nghĩa Đại Hán ngày xưa. Tức là họ lại muốn bành trường.
Tôi có nói chuyện với một số cựu phóng viên chiến trường Mỹ, trong đó có một người quen của ông là Mike Morrow (một trong hai sáng lập viên của Dispatch News Service – hãng tin đầu tiên phanh phui ra vụ thảm sát Mỹ Lai – TG). Họ đều nói rằng chỉ khi Mao Trạch Đông bắt tay Nixon ở Thượng Hải, họ mới thực sự tin rằng cuộc chiến tranh do Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành là để thống nhất đất nước, chứ không phải là một cuộc chiến tranh được uỷ nhiệm bởi Liên Xô và Trung Quốc.
Hồi đó, thấy báo chí đưa tin về cái bắt tay lịch sử này, ông có suy nghĩ gì không?
(Cười) Tất nhiên, hồi 1972, tôi cũng có một mối lo ngại nào đó, nhưng mơ hồ thôi. Nhưng đến ngày cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng Hoà thì có một sự việc khiến tôi thấy nghi ngờ mối quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội. Anh còn nhớ cái vai trò nho nhỏ của tôi trong những ngày đó chứ gì?
Vâng ạ. Ông đã được Tổng thống Dương Văn Minh cử vào trại David để thương thảo chuyện ngừng bắn với phía bên kia.
Sáng 30.4.1975, tôi và ông Huyền (Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền) đến gặp ông Dương Văn Minh tại Phủ Thủ tướng tại số 5 đường Lê Duẩn bây giờ. Lúc đó, Tướng Pháp Francois Vanussème, Tuỳ viên Quốc phòng và An ninh của Toà Đại sứ Pháp tại Sài Gòn, cũng có tới gặp ông, và hỏi rằng liệu có thể giữ được trong vài ngày không, bởi đã có đường dây liên lạc với Bắc Kinh, ngay tại toà đại sứ Pháp, để người Trung Quốc can thiệp, ngăn cản Bắc Việt giải phóng Sài Gòn.
Ông Minh đã trả lời rằng “ngày xưa đã bán đất cho Mỹ, nay lại còn bán đất cho Trung Cộng nữa à?”
Tôi muốn khẳng định lại là ông chứng kiến chuyện đó, hay nghe ông Dương Văn Minh kể lại?
Tôi có mặt ở đó mà.
Trong tay của ông, những bản đồ của Trung Quốc không có phần Hoàng Sa và Trường Sa trên đó được vẽ vào thời gian nào?
Khoảng từ thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 20. Ngay chính Đô đốc Trịnh Hoà dong buồm đi về cũng nói rằng đây là nước Giao Chỉ, biển này là biển Giao Chỉ.
Tôi có trong tay đầy đủ bản đồ mới dám tuyên bố công khai như vậy chứ. Đây là chuyện khoa học mà.
Nghe nói có hai lần ông tổ chức triển lãm bản đồ cổ, trong đó có những bản đồ cổ về Biển Đông?
Đúng vậy. Tôi tổ chức triển lãm mang tính khoa học, để cho mọi người biết là cho đến đầu thế kỷ 20, điểm cực nam của Trung Quốc vẫn chỉ là đảo Hải Nam.
Trung Quốc lợi dụng cách gọi của phương Tây
Gần đây, trên báo chí, ông có khẳng định lại là nguyên gốc của từ “Đông Dương” không phải là “Indochine”, như cách người Pháp giải thích. Xin ông giải thích rõ ràng hơn.
Đông Dương chính là Biển Đông. Trong bản đồ Trung Quốc vẽ về Việt Nam, vẽ năm 1842, thì đề là Đông Dương Đại Hải. Trước nữa thì có những bản đồ gọi Biển Đông là Đông Hải, Giao Chỉ Hải, hay Giao Chỉ Dương. Như ông cha mình gọi người phương Tây là người Tây Dương (Biển Tây), còn Việt Nam là Đông Dương (Biển Đông).
Nhưng khi người Pháp sang đô hộ Việt Nam, họ không nói tới biển, mà nói tới đất. Từ đó người ta không hiểu Đông Dương là Biển Đông nữa, mà Đông Dương là gồm 3 nước Việt Nam, Lào và Căm-pu-chia. Người Pháp lại không dịch Đông Dương là Biển Đông nữa mà dịch là Indochine (tức là Ấn Độ – Trung Quốc), tức là vùng tiếp giáp giữa hai nền văn hoá lớn này.
Chính cái cách dùng từ của người Phương Tây rất là tai hại, khiến cho ông Tàu ông ấy lợi dụng. Chẳng hạn, ông ấy bảo rõ ràng Tây bảo Biển Đông là Biển Trung Hoa, rồi cụ thể hơn là Biển Nam Trung Hoa (South China Sea).
Thực ra, những người phương Tây đầu tiên gọi Biển Đông là Biển Giao Chỉ phía Trung Hoa (Cochichine Sea), suốt mấy thế kỷ liền. Trong đó, Giao Chỉ là chủ từ, còn gần Trung Hoa là túc từ, để chỉ cho rõ Giao Chỉ nằm ở đâu. Sau đó, chữ Giao Chỉ bị ăn bớt đi và chỉ còn chữ Trung Hoa (China Sea).
Trên hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Võ bị chí (ghi lại cuộc hành trình của Trịnh Hòa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua Ấn Độ dương tới Phi Châu) có vẽ nước ta tuy đơn giản nhưng cũng rõ ràng: Nước Giao Chỉ bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, nam giáp nước Chiêm Thành, đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ dương, tức biển của nước Giao Chỉ. Đây là tư liệu của Trung Hoa khắc vẽ về nước ta và biển cả thuộc về nước ta từ thế kỷ XV.
Năm 1842, tác giả người Trung Hoa – Ngụy Nguyên xuất bản sách Hải quốc đồ chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các nước trên thế giới và toàn thể năm châu bốn bể, theo phương pháp khoa học với kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đã vẽ hai bản đồ về Việt Nam.
Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia nước ta ra hai phần (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía đông hai phần Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Dương đại hải, tức biển Đông rất lớn.
Cũng trong tác phẩm Hải quốc đồ chí, Ngụy Nguyên còn khắc vẽ bản đồ An Nam quốc với đường nét đúng kinh tuyến và vĩ tuyến rất rộng lớn. Ngoài khơi nước An Nam có ghi rõ Đông Nam hải, tức là biển Đông Nam.
Tại sao Giao Chỉ lại phiên sang tiếng Tây là Cochi?
Hình như bắt đầu từ người Nhật Bản nghe mang máng, rồi gọi Giao Chỉ là Cochi. Mã Lai cũng có địa danh Cochi, rồi Ấn Độ cũng có một thành phố tên là Cochin. Và thế là để phân biệt, họ gọi Việt Nam là Cochichine (Giao Chỉ phía Trung Quốc) để phân biệt, với hàm nghĩa cả nước Việt Nam.
Thế rồi, sau đó, họ gọi Đàng Trong (mới đến Phú Yên) là Cochichine. Đến thời Pháp Thuộc Cochichine có nghĩa là Nam Kỳ, Trung Kỳ là An Nam, còn Bắc Kỳ là Tonkin.
Đến bao giờ thì chữ Cochi bị mất đi trong bản đồ Tây Phương?
Thế kỷ 19, nhưng lác đác thôi. Vẫn còn có những bản đồ đề đó là biển Hoàng Sa – Trường Sa, gọi chung là Paracel Sea. Trong trên một trăm bản đồ tôi có đều ghi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tôi phỏng đoán có khoảng 1000 bản đồ cổ như vậy chứ không phải ít.
Chữ Indochine xuất hiện từ cuối thế kỷ 19. Bán đảo Đông Dương bao gồm 5 nước là Việt Nam, Lào Căm-pu-chia, Miến Điện và Mã Lai. Còn Đông Dương thuộc Pháp thì chỉ còn ba nước.
Xin cảm ơn ông.
Theo Dantri
Giải mật cuộc đối đầu tàu ngầm Xô - Mỹ ở Biển Đông (kỳ I)
Mùa hè năm 1972, tàu ngầm Guardfish (SSN-612) đang triển khai ở biển Nhật Bản khi mà các sự kiện trên thế giới đã đẩy vị thuyền trưởng, trung tá hải quân David C.Minton III và thủy thủ đoàn của ông tham gia vào một cuộc phiêu lưu để đời.
Tiền Phong giới thiệu câu chuyện về cuộc chạm trán hải quân giữa tàu ngầm hai cường quốc Liên Xô và Mỹ ở Biển Đông trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam, qua lăng kính người Mỹ.
Từ trên xuống dưới, nhìn qua kính tiềm vọng: Máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Liên Xô Tu-16, Tu-95 và tàu ngầm Charlie.
Ngày 9 tháng 5, cuộc chiến tranh ở Việt Nam đã nóng lại khi cuộc đàm phán hòa bình tai Paris đổ vỡ, và các lực lượng của Mỹ đã bắt đầu thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Phòng và các cảng quan trọng khác của miền Bắc Việt Nam. Mục đích cuộc phong tỏa nhằm ngăn chặn quân đội Bắc Việt Nam mà cuộc tiến công của họ đang được tiếp tế bằng đường biển bởi các đồng minh. Tàu Guardfish đã nhận được điện tín thông báo về khả năng sẽ có sự đáp trả bằng hải quân từ phía những người Xô Viết.
Tình hình thế giới rất căng thẳng. Không ai biết Liên bang Xô Viết sẽ phản ứng thế nào trước cuộc phong tỏa thủy lôi này. Tàu ngầm Guardfish đang ở độ sâu kính tiềm vọng tại một vị trí gần căn cứ hải quân lớn nhất của người Xô Viết tại Thái Bình Dương. Vào chiều tối ngày 10 tháng 5, một mục tiêu tiếp xúc bề mặt bị phát hiện ở ngoài kênh và nó đang di chuyển với tốc độ cao cắt ngang các đường giới hạn thông thường của kênh thủy đạo và hướng thẳng về phía tàu ngầm Guardfish đang chờ đợi. Khi tiếp xúc lại gần hơn nữa trong bóng tối đang sẫm lại, chúng tôi đã xác định được một cách trực quan đó là một tàu ngầm tên lửa Xô viết lớp Echo-2.
Tàu ngầm đó có lượng giãn nước 5.000 tấn, được cấp nguồn năng lượng từ lò phản ứng hạt nhân, mang theo 8 tên lửa Shaddock diện-diện (surface-to-surface missiles) có thể bắn trúng các mục tiêu ở khoảng cách lên đến 200 dặm. Guardfish bám theo nó. Chẳng mấy chốc Echo-2 lặn sâu xuống nước tiến theo hướng Đông-Nam với vận tốc lớn. Đó phải chăng là cuộc xuất kích đáp trả sự phong tỏa Hải Phòng bằng thủy lôi?
Trong hai ngày sau, tàu ngầm Liên Xô thường xuyên giảm tốc độ dành nhiều thời gian lặn ở độ sâu kính tiềm vọng, có thể để nhận các mệnh lệnh chi tiết từ tư lệnh hải quân chỉ huy nó. Trong khi lắng nghe Echo, Guardfish cũng bơi chậm lại, điều đó mở rộng đáng kể phạm vi phát hiện của sonar trên tàu. Trước sự ngạc nhiên của thủy thủ đoàn và sự báo động, có lẽ họ đã phát hiện ít nhất hai và có thể là ba chiếc tàu ngầm Liên Xô trong khu vực. Một tàu ngầm đã rất khó theo dõi, đeo bám ba hoặc bốn tàu ngầm là điều không thể! Vì vậy họ tập trung mọi nỗ lực duy trì tiếp xúc với Echo II mà họ đã xác định được bằng trực quan.
Tàu ngầm tuần dương chiến lược mang tên lửa đạn đạo Delta qua kính tiềm vọng.
Khi Echo II tiếp tục di chuyển tới lối ra phía nam của Biển Nhật Bản, thuyền trưởng phải thực hiện hai quyết định quan trọng. Thứ nhất, việc triển khai của ba, cũng có thể là bốn tàu ngầm Liên Xô có đáng để phá vỡ sự im lặng vô tuyến điện hay không? Ưu tiên số một trong tất cả các chiến dịch giám sát tàu ngầm là phải cung cấp được sự cảnh báo sớm về một cuộc triển khai bất thường của các tàu hải quân Liên Xô. Đây là loại báo cáo, gọi là báo cáo khẩn, chưa bao giờ được gửi đi trước đây.
Thuyền trưởng xác định rằng bây giờ là lúc cho Guardfish phá vỡ sự im lặng đó và ông đã thông báo cho chỉ huy chiến dịch biết tình hình tại chỗ. Thứ hai, Guardfish nên từ bỏ nhiệm vụ giám sát của mình trong Biển Nhật Bản để tiếp tục bám theo chiếc tàu ngầm Liên Xô? Lệnh hoạt động về trường hợp này vẫn im lặng chưa thấy tới, nhưng thuyền trưởng có cảm giác rằng người chỉ huy chiến dịch của họ muốn biết nơi người Xô viết sẽ đến. Bởi vì ông không thừa thãi thời gian để chờ đợi mệnh lệnh nên ông viện dẫn một tín điều bí mật của các chỉ huy tàu ngầm, "Không có can đảm, sẽ không có dải băng anh hùng". Và thế là họ theo đường của họ!
Theo dõi là một nhiệm vụ phức tạp. Đối với một chiếc tàu ngầm để không bị phát hiện thì vị trí tiếp xúc, và đương nhiên, cả tốc độ của nó cũng phải được xác định bằng cách sử dụng các phương vị sonar thụ động. Dải thụ động đòi hỏi Guardfish cần liên tục cơ động để tạo ra phương vị thay đổi so với đối tượng tiếp xúc. Quá gần bạn có thể bị phát hiện, quá xa tiếp xúc có thể bị mất. Những thao tác cơ động này thường được tiến hành trong khu vực lạc hướng của đối tượng tiếp xúc, điểm mù phía đuôi tàu.
Tàu ngầm Echo II hàng giờ đảo hướng để xóa khu vực lạc hướng này (baffle area). Đôi khi đó là cú ngoặt rất thụ động đến 90 độ để sonar của con tàu có thể lắng nghe mọi điều đằng sau nó và vào các thời điểm khác, con tàu lại chủ động quay 180 độ và phóng thật nhanh trở lại theo hướng cũ về phía Guardfish. Thao tác cơ động này rất nguy hiểm tạo ra khả năng một vụ va chạm thực sự. Ít nhất nó sẽ tạo ra cơ hội phát hiện sự hiện diện của Guardfish khi khoảng cách giữa 2 tàu ngầm gần lại. Khi Echo thực hiện thao tác cơ động xóa vùng mù thủy âm, Guardfish cố gắng dự đoán Echo-II sẽ quay hướng nào, nhằm bám theo một cách vô hình tàu ngầm Xô Viết từ phía đối diện. Ngoài ra, Guardfish còn phải ngay lập tức giảm tốc độ sao cho im lặng đến mức có thể và dành nhiều thời gian và tăng khoảng cách hơn nữa cho đến khi Echo II quay trở lại hướng di chuyển trước đây của nó.
Chiến hạm đầy uy lực Sovremenny của Liên Xô.
Ở Washington người ta cần có các báo cáo tình hình thường xuyên để đánh giá mối đe dọa và ý đồ của các lực lượng Xô Viết. Tổng thống Nixon và Cố vấn An ninh Quốc gia của ông hàng ngày được giới thiệu các phúc trình tóm tắt. Do việc truyền sóng radio tần số cao công suất lớn từ Guardfish là đối tượng để phát hiện và định vị bởi mạng lưới chặn bắt sóng điện từ của Liên Xô, một phương pháp liên lạc thay thế đã được thiết lập.
Máy bay chống ngầm P-3 của Hải quân đã bay những phi vụ bí mật trên các vị trí dự đoán có Guardfish và nhận được các báo cáo tình hình thông qua các bản tin ngắn phát trên tần số siêu cao hoặc trực tiếp từ Guardfish ở độ sâu kính tiềm vọng hoặc thông qua các phao phát tín theo khe thời gian, các bộ truyền phát tiêu hao nguồn nhỏ có thể lập trình với một bản tin ngắn và phóng ra từ bộ ejector tín hiệu (signal ejector) trong khi Guardfish vẫn đang ở độ sâu theo dõi.
Figure 33.-Submarine Signal Ejector.
Trong gian đoạn theo dõi này, bất kỳ tàu ngầm nào đang ở trên Thái Bình Dương đều được triển khai khẩn trương nhằm đảm bảo an toàn cho các tàu sân bay đang hoạt động ngoài khơi duyên hải Việt Nam, cũng như để dò tìm các tàu ngầm Xô viết. Sự triển khai này tạo thành một vấn đề nhiễu loạn qua lại, đối với bản thân tàu ngầm Guardfish, cũng như đối với bộ tham mưu chiến dịch hoạt động tàu ngầm này.
Guardfish được trao nhiệm vụ đến bất cứ nơi nào mà tàu ngầm Echo Xô Viết đi tới và bộ tham mưu phải tái bố trí sự triển khai các tàu ngầm thường xuyên để đảm bảo rằng nhiều tàu ngầm Mỹ êm hơn sẽ không gây nguy hiểm cho nhau hoặc cho bản thân Guardfish.
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Echo-II.
Tuần dương hạm hạng nặng chở máy bay Kiev.
Một lần khi đang ở trong biển Philippines Echo II quay về phía tây nam tiến theo hướng đến Bashi Channel, một eo biển giữa Đài Loan và các đảo nhỏ phía bắc đảo Luzon quần đảo Philippines. Bashi Channel thường được dùng như thủy đạo bắc vào Biển Đông và thuyền trưởng phải chắc chắn rằng đó là mục tiêu của Echo II, nhưng dấu vết của họ lại tiếp tục dẫn về phía nam so với hướng bình thường. Sau đó, Echo II đi chậm lại và chuyển lên chiều sâu kính tiềm vọng rồi tiếp tục chủ động đi rất nhanh dựa trên máy dò sâu của mình có thang đo ngắn không phù hợp với độ sâu của nước ở khu vực này. Tàu ngầm đã mất dấu!
Trong khi ở độ sâu kính tiềm vọng, con tàu Xô Viết chắc đã phải thu nhận được một sự chỉnh sửa tốt bởi vì Echo II đã lặn xuống sâu, hướng về Bashi Channel, tăng tốc độ lên 16 hải lý. Sau khi báo cáo về sự điều chỉnh hướng nhanh chóng này qua các phao phát tín hiệu, Guardfish tăng tốc phóng theo tàu Xô Viết, biết rằng việc tái định vị các tàu ngầm Mỹ sẽ gần như là không thể nếu dựa trên bản tin ngắn này. Như là một biện pháp phòng ngừa chống va chạm với một tàu ngầm Mỹ, thuyền trưởng thay đổi độ sâu đến 100 mét, độ sâu thường được sử dụng bởi các tàu ngầm Liên Xô và đó là độ sâu mà các tàu ngầm Hoa Kỳ thường tránh. Mối lo sợ của ông đã được chứng minh khi Guardfish phát hiện một tàu ngầm của Mỹ đang tiến xa về phía bắc với tốc độ rất cao.
Ngày 18 Tháng 5 Echo II đi vào Biển Đông và chuyển đến một điểm ngoài khơi cách bờ biển đảo Luzon khoảng 300 dặm. Trong tám ngày, nó thiết lập lưới cơ động chậm rãi tạo nên một khu vực tuần tra hình chữ nhật cách xa khoảng 700 dặm tới tuyến mà các tàu sân bay của chúng ta đang di chuyển dọc theo bờ biển Việt Nam và vượt xa ngoài phạm vi xạ kích tên lửa 200 dặm của nó.
Trong khi nhóm theo dõi phải vật lộn để duy trì tiếp xúc với Echo II, các sự kiện trên thế giới đang chuyển sang xu hướng hòa bình hơn. Sau các cuộc đàm phán lâu dài, Tổng thống Nixon đã đến Moskva tham dự hội nghị thượng đỉnh lịch sử của mình với Tổng Bí thư Brezhnev của Liên Xô. Trong thời gian hội nghị thượng đỉnh, ngày 24 tháng 5, Cố vấn An ninh quốc gia Kissinger thông báo cho ông Brezhnev rằng Hoa Kỳ đã biết việc Liên Xô triển khai các tàu ngầm và sự hiện diện của họ quá gần khu vực chiến tranh Việt Nam là một hành động khiêu khích và cực kỳ nguy hiểm. Trong hai ngày kể từ cuộc đối chất này, người Liên Xô nhắm mắt làm ngơ và tàu ngầm Echo bắt đầu hướng về phía bắc.
Sau khi vượt qua Bashi Channel tàu ngầm Echo thiết lập một khu vực tuần tra thứ hai trong biển Philippines về phía nam đảo Okinawa. Khu vực này của đại dương có những đặc tính về thủy âm tồi nhất đến mức có thể. Nó thường bị đan chéo bởi các giao thông thương mại dày đặc và vào ban đêm tiếng ồn sinh học và các cơn mưa thường xuyên làm nhiễu loạn sonar. Duy trì tiếp xúc trở nên khó khăn hơn so với trước đây, làm cho Guardfish cần phải bám đuổi ở những khoảng cách gần hơn và gần hơn nữa.
Một thủ tục dài nhằm chuyển sự theo dõi cho một tàu ngầm khác của Mỹ, vừa được phát triển bởi bộ tham mưu, được phát trên mạng truyền tin rộng rãi. Trong khi Guardfish đang ở độ sâu kính tiềm vọng sao chép tin nhắn khẩn cấp này, tàu ngầm Echo II đã bất ngờ nổi lên độ sâu kính tiềm vọng và phát hiện trực quan được Guardfish. Các thao tác cơ động tiếp theo của cả Guardfish và Echo II diễn ra rất mãnh liệt và ở tốc độ cao. Việc cố giữ tiếp xúc cảnh báo được chứng minh là không thể và tiếp xúc với Echo II đã bị mất.
Victor-II.
Khi Guardfish trở về Guam vào ngày 10 tháng 6, thủy thủ đoàn đã bơi ngầm 123 ngày với chỉ 8 ngày ngừng đi biển để sửa chữa. Họ đã thực hiện hai hoạt động có yêu cầu đặc biệt bao gồm cuộc theo dõi 28 ngày tàu ngầm Xô viết Echo II trong những điều kiện cực kỳ căng thẳng, nhưng tinh thần của Guardfish cực kỳ cao. Các sĩ quan và thủy thủ đoàn tự hào rất chính đáng về những gì họ đã hoàn thành.
Chi tiết cuộc chạm trán, truy đuổi hết sức căng thẳng, gay cấn giữa lực lượng tàu ngầm chiến lược Xô - Mỹ ở Biển Đông nhìn nhận thế nào bởi chỉ huy hai phía Liên Xô và Mỹ sẽ được đăng tải trong các kỳ tiếp theo.
(còn tiếp)
Theo Dantri
Thêm bản đồ cổ khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa Ngày 4.1, Viện Nghiên cứu Phát triển kinh tế xã hội (NCPTKTXH) TP.Đà Nẵng tiếp nhận thêm 1 Atlas và 43 bản đồ lãnh thổ Trung Quốc do ông Trần Thắng, Chủ tịch Hội Văn hóa Giáo dục Việt Nam tại Mỹ, sưu tầm và gửi tặng. Viện NCPTKTXH đánh giá, giá trị nhất là cuốn Trung Hoa Bưu Chính Dư Ðồ, Atlas...