Rừng… hòa giải
Vào rừng cãi nhau. Cãi xong rồi thì bao nhiêu hiềm khích sẽ được hóa giải. Nhờ vậy mà bản làng của người La Chí ở Bản Phùng (huyện Hoàng Su Phì, Hà Giang) luôn thuận hòa, yên vui.
“Tòa án” giữa rừng già
Bản Phùng là một trong những xã xa nhất về phía tây huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang). Đường lên Bản Phùng như con rắn vắt sườn dãy núi Tây Côn Lĩnh, một bên là núi đá dựng đứng, phía dưới là vực sâu hoang thẳm.
Sau mấy chục cây số đường cứ dốc lên mãi chẳng thấy xuống, bản làng La Chí hiện ra đẹp như cảnh thần tiên. Ruộng bậc thang đang vào mùa gặt chín vàng các sườn núi. Những ngôi nhà sàn nhỏ bé đứng bên những cánh đồng vàng óng. Phó bí thư Đảng ủy xã Long Văn Cương quần áo tề chỉnh đã chờ sẵn. Hôm nay anh là người đưa đường cho chúng tôi đi thăm “miếu cãi” trong khu rừng thiêng của người La Chí. Anh chỉ về phía cao nhất của Bản Phùng, nơi có một vệt xanh thẫm: “Rừng thiêng của người La Chí đấy. Miếu thiêng nằm trong đó”. Lại tiếp tục đi lên.
“Miếu cãi” nằm sâu giữa rừng, cạnh một gốc cây to cổ thụ, gần ngôi đền cúng thần rừng. Khu rừng rậm rì những gốc cây to và vắng lặng. Nhà thấy cúng của bản nằm ngay chân rừng. Ngồi bên cái bếp nhà sàn đỏ lửa, rít một hơi thuốc lào từ điếu cày, thầy cúng Diêu Phù kể cho chúng tôi nghe về phong tục có từ ngàn xưa của người La Chí.
Thầy cúng Diêu Phù kể về “miếu cãi” trong khu rừng thiêng ngay phía trên ngôi nhà sàn của cụ
Từ thời ông cha xưa để lại, cái miếu nhỏ xíu xiu trong rừng ấy lại là “tòa án” to nhất của dân Bản Phùng. Những ân oán, thù hận, những nghi vấn, ngờ hoặc lẫn nhau của dân bản đều được đưa ra “xét xử” ở đây. Chuyện kể lại rằng: hễ ai có xích mích hay gây mất lòng, thù hận nhau hoặc nhà nào trộm cắp con trâu, con gà của nhau mà không có bằng chứng, tang vật, cứ tranh cãi dùng dằng thì cùng dắt tay nhau vào rừng để thần rừng phân xử.
Mỗi bên đều phải chuẩn bị lễ vật cúng thần rừng để giải oan, mổ con lợn, làm thịt con gà rồi vào rừng. Tám thầy cúng của bản sẽ đứng ra làm lễ mời thần rừng đến phân xử đúng sai. “Phiên xử” linh thiêng và hết sức đặc biệt giữa rừng tiếp tục khi các thầy cúng cho phép mỗi người trình bày oan khuất của mình cho thần rừng nghe, cho thầy cúng biết và người làng tường tận. Có sự chứng kiến của thần rừng nên chẳng ai dám nói dối. Làm lễ xong thì mở tiệc ngay giữa rừng đãi bà con dân bản, sau đó ai về nhà nấy. Bước ra khỏi rừng những mâu thuẫn, hiềm khích coi như “xí xóa”, không bên nào được nhắc lại nữa. Không ít người trước khi vào rừng còn chối bay chối biến những hành vi sai trái của mình, nhưng bước vào miếu thiêng, sợ thần linh trừng phạt họ nhận lỗi rồi bồi thường thiệt hại cho “bên nguyên”.
Theo quan niệm của người La Chí, tổ tiên họ là Hoàng Dìn Thùng. Thân thể ông là dãy núi đất trùng điệp trên đó các bản làng La Chí sinh tụ. Phần đầu của ông sinh ra người anh cả ở Bản Díu, người con thứ hai sinh ra từ bụng là Bản Phùng, còn người con út sinh ra ở chân là Bản Máy, Bản Pắng. Họ đều là anh em một nhà và có chung 10 cánh rừng thiêng. Anh Long Văn Cương, phó bí thư Đảng ủy xã Bản Phùng, cũng là người La Chí. Anh cho biết tục lệ linh thiêng ấy của ông cha vẫn tồn tại cho đến hôm nay, lễ giải oan không còn nhiều như xưa nhưng nó mang giá trị tinh thần rất lớn, khiến anh em La Chí trung thực, hòa thuận và đoàn kết với nhau hơn.
Anh Long Văn Cương bảo rằng dân bản tuyệt đối tin vào sự công minh của thần rừng. Họ phó thác chân lý cho thần rừng bởi họ tin rằng ai sai mà gian dối thì sẽ bị thần linh phạt, gà vịt, trâu bò, người trong nhà sẽ gặp nạn. Trong lịch sử của người La Chí, có lẽ bởi “tín nhiệm” thần rừng nên dân Bản Phùng chẳng mấy khi phải động đến tay chân hay “võ mồm”.
Không biết những “miếu cãi” của người dân có từ bao giờ. Trong cuốn biên niên sử duy nhất của người La Chí không thấy nhắc đến, những người già nhất ở Bản Phùng cũng không thể nào tường tận, họ chỉ biết được rằng khi họ sinh ra tục lệ đã có rồi!
Mẹ cả của những cánh rừng sau núi
Người La Chí Bản Phùng với gần 500 hộ gia đình nằm trải dài một bên sườn núi, còn khu rừng thiêng nằm ngay chỗ cao nhất của bản, trên đỉnh Lủng Cẩu.
Video đang HOT
Dân làng La Chí sống dựa vào những cánh rừng thiêng. Thầy cúng Diêu Phù kể rằng nếu mùa màng bị sâu hại, trâu bò, con người mang dịch bệnh họ nghĩ ngay đến việc đã làm mạo phạm thần linh. Già bản sẽ bói để xem phải cúng ở rừng nào. Sâu bọ phá mùa màng cúng rừng này nhưng trâu bò chết lại cúng ở rừng khác… Từ ông thầy cúng già cho đến đứa trẻ ở Bản Phùng đều “coi rừng như mẹ cả”. Và người La Chí sống chết cũng phải bảo vệ mẹ rừng.
Người già trong bản kể lại rằng hồi ấy chiến tranh diễn biến ác liệt, thằng giặc Pháp từ mạn Lào Cai, Yên Bái tràn sang Bản Phùng. Chúng đốt rừng, ùa vào nhà chém giết bà con dân bản, bắt trâu bò, gà vịt làm thịt bừa phứa linh đình suốt nhiều ngày. Rồi trong đám giặc ấy có nhiều tên hóa dại điên cuồng, sau chết gục bên cạnh con suối nhỏ dưới chân bản.
Từ đấy, dân Bản Phùng bảo vệ “mẹ rừng” như cơ thể của mình. Vậy nên mới có chuyện suốt dãy núi Hoàng Dìn Thùng, nơi người La Chí sinh sống, có những cánh rừng rậm chằng chịt đủ các loại cây dù xung quanh đồi trọc bao la. Trong rừng, những cây chò, cây sanh, cây lim rêu mọc quanh thân mấy người ôm vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Anh Triệu Tiến Quang, bí thư Huyện đoàn Hoàng Su Phì, bảo rằng rừng thiêng và tục cúng thần rừng hầu như tồn tại ở tất cả dân tộc anh em xứ Hà Giang này. Với người La Chí, rừng là nơi vô cùng tôn kính, nơi trang nghiêm để “tám hồn chín vía” cha ông trú ngụ. Cứ mồng 2 tết hằng năm, họ Long, họ Vương, họ Ly, họ Tận sẽ đại diện cho bà con vào rừng mổ trâu, mổ lợn, mổ gà cùng đôi cái bánh chưng vào miếu giữa rừng sâu để “diện kiến” thần linh. Những người La Chí ở Bản Díu, Bản Pắng, Bản Máy bên kia những quả núi cũng được báo tin đến dự.
Trong suốt hành trình đi tìm những câu chuyện rừng, không chỉ ở những bản làng La Chí, chúng tôi còn bắt gặp ở xã Thèn Chu Phìn, xã Tụ Nhân (Hoàng Su Phì, Hà Giang) những khu rừng cấm còn nguyên dáng dấp của sự hoang sơ nguyên vẹn.
Điểm chung nhất ở những nơi này là tự thân người dân bản không bao giờ đụng đến rừng. “Ở Bản Phùng, hầu như không mấy khi người dân dám vào rừng, đền thờ cũng không bước vào” – cụ Diêu Phù nói như đe chúng tôi. Ai chặt cây rừng bị bắt gặp sẽ bị dân làng phạt vạ, mổ trâu, mổ lợn cúng thần rừng. Từ sự tôn trọng rừng ấy mà trong những bản làng xa tít này, người ta vẫn có thể thấy được hình dáng ẩn dật của những cánh rừng hoang sơ và cô độc.
Người Bản Phùng chẳng còn ai biết những cánh rừng thiêng có từ bao giờ. Nhưng tục mổ trâu cúng thần rừng mồng 2 tết của người La Chí vẫn diễn ra hằng năm. Và cái “bảo tàng sọ trâu” của họ cũng chẳng ai đếm được đã mấy trăm chiếc.
Nhà sọ trâu nằm ngay chân rừng cãi. Từ nhà thầy cúng Diêu Phù, chúng tôi băng qua mấy thửa ruộng bậc thang đến một ngôi nhà bên cạnh cây mận chua trĩu quả. Nhà rộng chừng chục mét vuông, không có cửa, không có tường, chỉ có gỗ rừng làm cột kèo và mấy tấm fibro ximăng để che đậy mưa nắng. Ngang trên những cột kèo ấy là nhiều sọ trâu được xếp cẩn thận và ngay ngắn. Mỗi lần cúng thần rừng, dân bản sẽ làm thịt trâu đem vào rừng cúng. Sọ trâu đem về treo lên một cây tre khô đằng sau nhà sọ trâu. Khi nào cây tre này đổ gãy thì dân làng lại tiếp tục mổ trâu để cúng thần. Còn đầu trâu bị rơi xuống đất kia sẽ được đem vào “bảo tàng” của dân tộc chính là ngôi nhà sọ trâu. Sọ trâu theo năm tháng cũng hư nát dần mòn.
Bản Phùng đẹp ngây ngất như một bức tranh với những sườn ruộng bậc thang bao la, hùng vĩ. Người La Chí bắc ống tre dài cả chục, cả trăm mét dẫn nước từ trên khe núi xuống tưới tiêu ruộng đồng. Tổ tiên của họ chọn những cánh rừng thiêng cũng chính là những cánh rừng đầu nguồn. Nhờ những khu “rừng cãi”, rừng thiêng mà nguồn nước cuối cùng cho đồng ruộng của người La Chí được bảo vệ.
Theo 24h
Lời ru buồn ở bản "gà trống nuôi con"
Ở xã Cốc Mỳ (Bát Xát, Lào Cai) đang phải đối mặt với một bài toán khó khăn mà chưa ai tìm ra lời giải. Đã 5 năm nay hàng chục phụ nữ đột ngột vượt biên mà không rõ nguyên nhân. Nhưng vượt lên trên nó là những hậu quả khôn lường mà ít ai có thể ngờ tới. Chồng thiếu vợ, chán đời sa đà vào rượu, tệ nạn xã hội. Con vắng mẹ, sẽ có một tuổi thơ thiếu thốn, rồi biết bao hiểm họa rình rập.
Gà trống nuôi con
Biết chúng tôi tìm hiểu về hiện tượng phụ nữ bỗng nhiên bỏ nhà qua biên giới ông Nguyễn Trọng Quốc (Phó Chủ tịch UBND xã Cốc Mỳ) chỉ biết lắc đầu ngán ngẩm: "Chúng tôi gần như bất lực! Chẳng biết làm cách nào để ngăn chặn tình trạng này nữa".
Đã 5 năm nay chính quyền địa phương xã Cốc Mỳ vẫn chưa có lời giải cho bài toán đó. Họ đành bất lực, xót xa nhìn những đứa trẻ mất mẹ, người chồng mất vợ. Quả thực đến Cốc Mỳ những ngày này ít ai cầm được nước mắt khi phải nghe, chứng kiến những câu chuyện buồn của các gia đình "què cụt".
Những ngôi nhà của đồng bào Mông nằm chon von, đơn độc trên tận núi cao. Chẳng biết có phải vì những trận mưa dài ngày mà những ngôi nhà đó trở nên xiêu vẹo tồi tàn. Hay vì nó thiếu đi hơi ấm của người phụ nữ? Ở đó chỉ còn những người đàn ông mất vợ, những đứa trẻ bơ vơ đến tội nghiệp.
Vượt qua con đường đất đỏ lầy lội, rồi men theo dòng sông Hồng ngầu đỏ chúng tôi đến gia đình anh Sùng Anh Sanh. Anh được mệnh danh là người đàn ông "khổ sớm". So với ở đây gia đình anh Sanh thuộc dạng khá khẩm bởi anh còn khỏe, còn làm được ra tiền. Nhưng hàng ngày anh phải chịu nỗi đau khi người vợ (chị Vàng Thị Mái) bỏ anh và các con đi mà chẳng nói một lời.
Anh Sùng A Sanh cùng đứa con út
Anh kể: "Vào tháng 6 năm 2011 khi đi làm về đã không thấy vợ ở nhà. Hỏi các con cũng không đứa nào biết. Em đi tìm mãi, đi lên tận thành phố cũng không thấy. Chắc là sang bên kia với người ta rồi!". Vậy là người phụ nữ cả đời không ra khỏi bản đó đã nghe theo những lời dụ dỗ ngon ngọt rằng: Sang bên kia sẽ có nhiều tiền, không khổ. Lòng tham, sự tò mò đã thúc giục người đàn bà đó lặng lẽ bỏ đi. Chị đâu biết rằng chỉ bước qua vạch biên giới thôi là sẽ chẳng còn cơ hội trở về? Chị đâu biết rằng bên chị không chỉ có chồng mà còn 3 đứa con nhỏ. Tìm mãi không được, anh Sanh buộc phải đối diện với sự thực nghiệt ngã. Anh kể: "Chúng nó còn bé quá. Đứa lớn mới được 5 tuổi, đứa nhỏ nhất mới được 2 tuổi. Chẳng bao giờ đánh đập mẹ nó, cuộc sống cũng không quá khổ sở nhưng tự nhiên cô ấy bỏ đi".
Thế rồi người đàn ông vụng về đó tất bật lo cho đứa lớn ăn, rồi đứa bé khóc. Đau đớn nhất là đêm nào anh cũng phải trả lời những câu hỏi mà đến bản thân cũng không biết tại sao: Mẹ đi đâu rồi? Mẹ bỏ chúng con rồi à? Mẹ không thương chúng con nữa hả bố? Anh chỉ còn biết khóc mà trả lời con: Mẹ đi xa kiếm tiền nuôi các con mà! Khi các con ngủ say anh lại lủi thủi ra bờ sông cùng chai rượu nhìn sang biên giới tự hỏi: "Sao em lại bỏ các con đi thế?'. Ôm ba đứa con nhỏ, người đàn ông vạm vỡ không cầm được nước mắt: "Từ ngày vợ nó bỏ đi chẳng điện thoại gì về cả. Chắc là sống ở đó sung sướng lắm nên không nhớ các con".
Theo anh Sanh tại địa bàn xã Cốc Mỳ đang có 1 đối tượng chuyên dùng những lời ngon ngọt để dụ dỗ những phụ nữ nhẹ dạ cả tin. Có đôi lần chứng kiến tận mắt chúng đưa phụ nữ sang biên giới cũng không dám nói ra vì sợ trả thù.
Anh Sanh chia sẻ: "Có lần tôi nhìn thấy hắn chở 2 cô gái sang biên giới. Nghe đâu các phụ nữ cũng có giá cả đàng hoàng. Những phụ nữ tuổi từ 15 đến 20 bán được với giá 6 vạn nhân dân tệ, tương đương 180 triệu đồng Việt Nam. Còn những phụ nữ từ 25 đến 30 tuổi với giá khoảng 3 vạn nhân dân tệ. Có biết chúng tôi cũng chẳng dám báo bộ đội biên phòng đâu. Nó mà biết ai báo sẽ về trả thù bằng cách bắt vợ của người đó sang biên giới".
Câu chuyện của anh Sanh chỉ là một trong những cậu chuyện buồn ở xã Cốc Mỳ này. Vợ ông Giàng A Páo bỏ nhà đi lại trong một hoàn cảnh khác. Năm 2009 vợ ông theo người quen sang Trung Quốc làm ăn, cũng chỉ với mục đích kiếm thêm chút ít rồi trở lại quê hương tính chuyện vợ con cho thằng lớn. Nhưng cái lần tiễn vợ qua biên giới cũng là lần cuối ông nhìn thấy vợ.
Đã 3 năm rồi chẳng một cú điện thoại, chẳng một lá thư. "Nhiều khi buồn muốn chết đi cho xong, rồi có lúc chán nản muốn bỏ đi khỏi đây. Nhưng 4 đứa con ai sẽ nuôi chúng khi đang ở tuổi ăn tuổi học". 4 năm xa vợ, 4 năm ông chịu bao cực nhọc, vất vả khuôn mặt của người đàn ông hơn 60 tuổi kia trở nên già, khắc khổ hơn. Với ông sự ra đi của vợ như nhát dao đâm vào lồng ngực. Nhiều khi ông đã tìm đến rượu, tìm đến cảm giác ảo để quên đi hiện thực đau lòng này.
Đâu chỉ có ông Páo tìm đến rượu, còn ông Lủ cũng ngày ngày ngập ngụa vào men say. Đang đắm trong cơn say nhưng khi nhắc đến vợ, mẹ của 7 đứa con ông Lủ như bừng tỉnh. Ông đau đớn trước hiện thực mà bấy lâu ông muốn quên đi. "Khoảng mồng 9 tết, tôi vừa uống rượu nhà bạn về, mở cửa nhà thì không thấy vợ đâu. Lao vào buồng thì đã không còn quần áo, tư trang của vợ nữa. Lúc đó ở xã này nhiều phụ nữ bỏ đi lắm. Tôi đã linh tính điều chẳng lành!". Tránh đi ánh mắt buồn, ngấn nước ông Lủ nhìn đi rồi cầm chai rượu ngửa cổ tu ừng ực.
Hiểm họa cho những đứa trẻ
Suốt một quãng đường vào xã Cốc Mỳ, chúng tôi gần như không được nghe những tiềng cười đùa của con trẻ. Thỉnh thoảng lại bắt gặp đám trẻ con lông nhông, trần như nhộng hoảng sợ khi thấy người lạ. Chị Lý Thị Hoa (Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Cốc Mỳ) nói: "Chúng nó sợ đấy, những đứa trẻ thiếu mẹ ám ảnh người lạ lắm. Chúng nghĩ người lạ chính là những người đến bắt mẹ chúng đi khỏi bản".
Nằm chênh vênh trên mép sông Hồng, ngôi nhà mới của anh Giàng A Cơ đang được bà con hàng xóm cất giúp. Anh Cơ đang nuôi nấng một đứa cháu mà chính người chị gái mình bỏ rơi sang Trung Quốc. Cách đây 3 năm, chỉ trong chớp mắt cháu Thào mất đi người cha. Cái chết của anh quá đỗi đột ngột mà nguyên nhân được người ta đồn là do sốc ma túy. Thế rồi 1 năm sau không chịu được cảnh cô đơn, cơ cực mẹ em cũng theo người ta qua biên giới. Hai anh em vất vưởng, chỉ còn biết nương tựa vào ông bà nội. Nhưng rồi sức già cũng không cáng nổi Thào nữa. Em được ông bà mang về ngoại với lời gửi gắm: "Nhờ mọi người nuôi giúp 1 đứa. Sức chúng tôi già chỉ cáng được 1 đứa thôi".
Cậu của Thào chỉ biết nhìn cháu ngày một mòn mỏi vì HIV
Ông bà ngoại cũng không còn, tất cả lại đổ vào đầu người cậu, anh Cơ tâm sự: "Cũng chẳng còn cách nào khác là chăm sóc nó như con mình. Dù sao cũng là ruột thịt của nhà mình mà. Nhiều lúc cũng thương thằng bé nhưng chẳng biết động viên thế nào. Từ ngày mẹ nó bỏ đi nó như bị thần kinh, cứ ngơ ngẩn cả ngày, ai hỏi cũng chỉ cười".
Chúng tôi và cả chị Hoa không khỏi giật mình khi biết tin cháu Thào nhiễm HIV. Ngồi lặng lẽ nơi góc nhà, Thào thỉnh thoảng lại đưa ánh mắt buồn về phía chúng tôi. Hỏi em có nhớ mẹ không em chỉ cười rồi lại lặng lẽ nhìn về phía bờ sông. Hàng ngày em phải chịu đựng đau đớn do căn bệnh thế kỷ hành hạ, rồi cả nỗi nhớ mẹ, nhớ cha. Nhìn khôn mặt ngây thơ, đang lở loét vì HIV ít người cầm nổi nước mắt. Anh Giàng A Cơ mới ngoài 20 tuổi nhưng đã có vợ và con. Anh còn quá trẻ để lo cho một gia đình và cả đứa cháu mang trong mình trọng bệnh.
Với giọng bình thản anh Cơ nói: "Nó bị si đa đấy, năm ngoái người ta cho đi thử máu rồi. Lâu lắm không lấy thuốc ở trạm y tế. Tôi bận lắm không có thời gian lấy thuốc cho nó uống đâu. Mà nó cũng khỏe chẳng mấy khi ốm đau, chỉ sốt nhẹ rồi lại khỏi. Chỉ nhớ là khi nó bị chảy máu là không được động vào thôi".
Bản Trang là bản khá xa trung tâm xã, đến được bản này chúng tôi phải vượt qua những con dốc lởm chởm đá. Mẹ bỏ đi, ngôi nhà rách nát, tiều tụy càng thêm lạnh lẽo. Giàng Thị Chư còn nhớ như in cái ngày mẹ mình bỗng nhiên mất tích. Năm năm về trước, vào cái ngày đầu xuân ấm áp, chị Lò Thị Chừ (mẹ Chư) dứt áo bỏ lại 5 đứa con nheo nhóc cho chồng.
Mỗi đêm về, 6 bố con lại ôm nhau chống lại cái lạnh cắt da của miền sơn cước. Những lúc như thế Chư lại càng thấm thía cảnh thiếu vắng tình yêu thương của mẹ. Thế rồi bố chán đời, bỏ bê công việc ruộng nương suốt ngày vùi đầu vào rượu. Bố bỏ mặc chị em Chư như con chó con gà trong vườn.
5 đứa nhỏ cứ thế sống, sống lăn lóc như củ khoai củ sắn. Thế là Giàng Thị Chư phải bỏ dở việc học để lo cho các em. Sáng địu đứa em nhỏ mới hơn 6 tháng tuổi lên nương, tối về lại lo cơm nước cho cả nhà. Chư lại khóc: "Ngày nào các em cũng hỏi mẹ đi đâu, em chỉ biết bảo mẹ đi chưa về. Mẹ về sẽ mua quần áo và bánh kẹo cho chúng mày".
Mặt trời đã lặn sau núi, phía đằng Đông cơn mưa lại ùn ùn kéo đến. Xã Cốc Mỳ lại chìm trong bóng đêm, lại lay lắt bởi những trận mưa rừng dai dẳng. Liệu những đứa nhỏ không mẹ kia sẽ sống tiếp những ngày còn lại ra sao? Biết bao hiểm họa còn đang rình rập chúng khi bài toán vượt biên của xã Cốc Mỳ còn chưa có lời giải.
Bà Lý Thị Hoa, Hội trưởng Hội Phụ nữ xã Cốc Mỳ cho biết:
Hiện tượng phụ nữ bỏ sang Trung Quốc xảy ra được khoảng 5 năm rồi. Tổng số người bỏ đi tính đến thời điểm này là 38 trường hợp. Riêng từ đầu năm 2012 đã có tới 8 phụ nữ bỏ đi. Điều đáng nói là từ năm 2011 đến nay có tới 28 trường hợp phụ nữ bỏ đi và có dắt theo 4 bé gái. Động cơ bỏ đi của các chị em chủ yếu là đi kiếm tiền. Các đối tượng lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin, lòng tham của phụ nữ ở đây nên đã lôi kéo. Vấn đề nhức nhối nhất là khi các chị em bỏ đi sẽ bỏ lại con nhỏ.
Nhiều ông chồng chán nản nảy sinh rượu chè vô tình đẩy những em nhỏ vào những hoàn cảnh cực kỳ báo động. Hội phụ nữ cũng đã kết hợp với các ban ngành có chính sách thăm hỏi, động viên và hỗ trợ những gia đình khó khăn. Hàng năm những dịp lễ tết thường xuyên tặng qua cho những em nhỏ thiếu mẹ, có hoàn cảnh khó khăn. Xã đã trợ cấp 15 kg gạo/khẩu/tháng cho những gia đình khó khăn.
Ông Nguyễn Trọng Quốc, Phó Chủ tịch UBND xã Cốc Mỳ chia sẻ:
Thực ra phụ nữ trong xã đột ngột bỏ đi cũng chưa xác định được chính xác nguyên nhân. Vì có nhiều trường hợp bỏ đi hoàn cảnh gia đình cũng rất khá giả. Những phụ nữ bỏ đi tập trung nhiều ở Tân Giang, Sơn Hà, Tả Lìn, Tả Suối Câu, Phin Than. Xã đã tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền nhưng vẫn chưa hiệu quả. Nguyên nhân chính vẫn là do trình độ học vẫn của người dân thấp. Ở đây tập trung chủ yếu là người dân tộc Mông nên rất khó khăn vì dân trí rất thấp, đa số không biết chữ. Lực lượng Công an xã đã phối hợp với bộ đội Biên phòng liên tục tuần tra.
Theo 24h
Sống mòn ở vùng đất chết Hai năm qua, xã Noong Hẻo, huyện Sìn Hồ - Lai Châu đã có hơn 40 người chết và hiện có gần 500 người đang nghiện ma túy, bị "ết" (HIV/AIDS). Vàng, ma túy, HIV đã tàn phá và biến quê nghèo này trở thành vùng đất chết Mặt trời chưa ló dạng. Phó Bí thư Đảng ủy xã Noong Hẻo, anh Lù...