Quyền lực của Chu Vĩnh Khang từng khủng khiếp ra sao?
Ở đỉnh cao quyền lực, Chu Vĩnh Khang kiểm soát các lực lượng cảnh sát, gián điệp, hệ thống tòa án và các văn phòng công tố ở khắp Trung Quốc.
Vị cựu lãnh đạo ngành công an cũng không ngại ngần dùng khối tài sản khổng lồ để đè bẹp người bất đồng quan điểm cũng như bất ổn dưới chiêu bài “vì sự ổn định xã hội”.
Thời điểm trước khi Chu nghỉ hưu năm 2012, sự bất bình đẳng thu nhập và tình trạng tham nhũng diễn ra ngày một tồi tệ ở Trung Quốc. Chu giám sát ngân sách an ninh thậm chí còn qua mặt cả quân đội với 2 triệu người.
Là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc – cơ quan ra quyết định lớn nhất nước này – Chu là một trong 9 thành viên nắm quyền sinh quyền sát ở quốc gia hơn 1,3 tỉ dân. Bởi thế, dù đã rời xa chính trường, Chu và gia đình vẫn được cho là hưởng lợi khổng lồ từ vị trí của mình.
Sau nhiều tháng đồn đoán căng thẳng, Uỷ ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương Trung Quốc hồi tháng 7 đã công bố điều tra chính thức Chu vì “vi phạm kỷ luật nghiêm trọng”. Vào cuối tuần trước, Tân hoa xã thông báo, Chu chính thức bị khai trừ khỏi đảng và bị truy tố.
Chu Vĩnh Khang (trái) và Chủ tịch Tập Cận Bình khi ông Chu còn đương nhiệm. Với vị trí là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc, đứng đầu ủy ban Chính trị- Pháp luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc, ông Chu Vĩnh Khang từng được xem là người giữ quyền lực đứng thứ 3 của đất nước 1,3 tỷ dân này.
Vụ việc của Chu đã được chuyển tới cơ quan công tố tối cao – mở đường cho phiên xét xử khiến cho Chu trở thành vị quan chức cao cấp nhất Trung Quốc đối mặt với các tội danh tham nhũng trong lịch sử thành lập nước cộng hòa nhân dân.
Các điều tra viên cho biết, cựu Bộ trưởng Công an 71 tuổi này đã nhận số tiền hối lộ khổng lồ, lạm dụng quyền lực hưởng lợi bất chính cho gia đình và người thân, bạn bè, lộ bí mật quốc gia, ngoại tình, đổi quyền lực lấy tình và tiền…
Phá vỡ điều cấm kỵ
Rất nhiều người xem sự sụp đổ của Chu Vĩnh Khang như một khoảnh khắc bước ngoặt trong thế giới chính trị bí mật của TQ. Thế giới này hiện do Chủ tịch Tập Cận Bình đứng đầu, ông là người đã tuyên bố chiến dịch chống tham nhũng nhằm vào cả “hổ” và “ruồi” (quan chức cấp cao, cấp thấp).
“Điều quan trọng ở đây là ông Tập Cận Bình đã chứng tỏ ông có đủ sức mạnh để phá vỡ điều cấm kỵ là chưa từng buộc tội cựu ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị”, nhà phân tích Willy Lam thuộc Đại học Trung Quốc ở Hong Kong nói.
Khác với ông Tập – vị thái tử với dòng dõi cách mạng, Chu Vĩnh Khang sinh ra trong một gia đình nghèo ở phía đông Trung Quốc. Cha ông là một nông dân mù chữ nhưng sẵn sàng vay mượn để con tới trường. Thông minh và chăm chỉ, Chu đã không làm cha thất vọng, và trở thành một trong số ít sinh viên địa phương trúng tuyển vào trường đại học danh giá ở Bắc Kinh.
Chủ tịch Tập Cận Bình được đánh giá là người đã phá vỡ luật chơi “bất thành văn” trong giới chính trị bí mật Trung Quốc khi lệnh bắt giữ ông Chu Vĩnh Khang được đưa ra ngày 5/12/2014 vừa qua
Ngôi trường này giờ gọi là Đại học Dầu khí Trung Quốc, là cái nôi sản sinh ra những “ông trùm” ngành dầu khí quốc gia. Tốt nghiệp ngành khai thác đầu, Chu tới làm việc ở một khu khai thác phía đông bắc Trung Quốc và nhanh chóng thăng tiến từ cuối những năm 1960-1980.
Chu được nhớ tới vì những kỹ năng chính trị hơn là chuyên môn. Kỹ năng ấy được dịp phát triển khi ông chuyển tới Bộ dầu khí ở Bắc Kinh – sau này trở thành một tập đoàn dầu khí nhà nước khổng lồ, cũng là căn cứ quyền lực của Chu Vĩnh Khang.
Video đang HOT
Vượt qua những đấu tranh phe phái trong bộ, Chu trở thành nhà lãnh đạo quyết định, chủ trương tập trung vào thăm dò khai thác dầu khí nội địa cũng như ở nước ngoài, một chiến lược hai hướng được nối tiếp tới tận ngày nay.
Tăng trưởng nhanh chóng từ các thương vụ nước ngoài khiến cho sự giám sát của Bắc Kinh trở nên khó khăn hơn, gieo mầm cho tham nhũng.
Năm 2001, sau thời gian làm Bộ trưởng Đất đai và Tài nguyên, Chu trở thành Bí thư tỉnh ủy Tứ Xuyên – một trong những tỉnh đông dân nhất Trung Quốc. Báo chí nhà nước khi ấy mô tả Chu là nhà lãnh đạo có khả năng hùng biện, tầm nhìn rõ ràng, chủ trương thu hút các công ty công nghệ cao và hiện đại hóa lĩnh vực nông nghiệp, du lịch.
Năm năm sau, Chu vươn tới đỉnh cao quyền lực bằng vị trí trong Thường vụ Bộ Chính trị Trung Quốc. “Triều đại” của Chu trùng hợp với nhiều sự kiện lớn cũng như cả bất ổn xã hội như: Olympic Bắc Kinh 2008, kỷ niệm 60 năm thành lập nước cộng hòa nhân dân năm 2009 và World Expo tại Thượng Hải năm 2010.
Người bảo trợ ngã ngựa
Khi Trung Quốc đặt ưu tiên an ninh và ổn định trên hết, Chu nhanh chóng mở rộng sức mạnh của lực lượng công an, hạn chế sự độc lập của tư pháp, củng cố danh tiếng như một nhà lãnh đạo cứng rắn.
Trong thời gian này, Chu trở thành người bảo trợ của Bạc Hy Lai – một ngôi sao chính trị đang lên ở Trùng Khánh.
Chu Vĩnh Khang (trái) cùng với Bạc Hy Lai, nguyên Bí thư Trùng Khánh. Bạc Hy Lai đã “ngã ngựa” sau khi cánh tay mặt của Bạc là Vương Lập Quân chạy vào cơ quan đại diện ngoại giao Mỹ tại Thành Đô xin tị nạn chính trị. Án tù chung thân đã được tuyên với ông Bạc và vợ ông Bạc chịu án tử hình treo 2 năm. Ông Chu được xem là người bảo trợ cho ông Bạc về trên con đường chính trị. Ông Bạc thuộc nhóm “Thải tử đảng”, con trai của ông Bạc Nhất Ba.
Sự sụp đổ của Bạc Hy Lai năm 2012 đã thu hút sự chú ý của cả thế giới. Trong khi đó, truyền thông nhà nước Trung Quốc mô tả đây là ví dụ điển hình cho quyết tâm làm trong sạch đảng cầm quyền của ông Tập Cận Bình.
Tuy nhiên, có không ít nhà phân tích cho rằng, sự sụp đổ của Chu Vĩnh Khang cũng như Bạc Hy Lai là đấu đá phe cánh chính trị; rằng ông Tập Cận Bình không thể tìm ra lý do nào tốt hơn để loại bỏ các đối thủ chính trị hơn là cái cớ chống tham nhũng.
Những người thân cận với Chu cũng không thoát khỏi điều tra. Hàng chục thành viên gia đình của Chu cũng như các trợ lý thân tín hoặc bị điều tra, hoặc bị bắt giữ, lớn nhất là ở cơ quan an ninh, công nghiệp dầu khí và tỉnh Tứ Xuyên – ba nơi mà Chu từng thống trị.
Hầu hết câu chuyện hiện tại đều tập trung vào sự giàu có của gia tộc Chu Vĩnh Khang. Gia đình Chu được cho là hưởng lợi lớn từ sự bùng nổ của ngành năng lượng và bất động sản.
Con trai cả của Chu, 42 tuổi, được cho là sở hữu rất nhiều bất động sản trị giá nhiều triệu đô la. Thậm chí ở tuổi 30, anh ta đã nhanh chóng thành công và thăng tiến sau khi thắng thầu nâng cấp hệ thống IT cho 8.000 trạm xăng khắp Trung Quốc.
Báo chí Trung Quốc còn đề cập tới việc em trai của Chu – từng là một nông dân – đã sử dụng ảnh hưởng của Chu Vĩnh Khang để hưởng lợi từ việc giúp người ra tù, người vào học viện cảnh sát, hay bán ống dẫn cho các khu khai thác dầu khí…
Theo giới phân tích, Chu và con trai có thể bị kết án tử hình treo.
Từ cậu bé bắt lươn, Chu Vĩnh Khang đã trở thành ông trùm an ninh với quyền lực đứng đầu 5 băng nhóm: Nhóm đầu tiên là “bang Tứ Xuyên”: Từ 1999- 2002, Chu Vĩnh Khang là Bí thư Tứ Xuyên, tuy thời gian không dài, nhưng sau khi về Bắc Kinh giữ các chức trọng: Ủy viên thường vụ, Bí thư Trung ương, Bộ trưởng Công an, Bí thư Chính trị – pháp luật… nằm trong trung tâm quyền lực, ảnh hưởng của Chu ở quan trường Tứ Xuyên rất lớn. 13 tháng sau Đại hội 18, lần lượt Phó Bí thư tỉnh ủy Lý Xuân Thành, Phó tỉnh trưởng Quách Vĩnh Tường, Chủ tịch Chính Hiệp tỉnh Lý Sùng Hy và hơn 40 cán bộ cấp sở, ty của Tứ Xuyên lần lượt bị bắt hoặc mất chức… Nhóm thứ hai là “bang Dầu khí”: Từ tháng 8/2013, “bang Dầu khí” của Chu Vĩnh Khang đã bị đánh sập, hàng loạt quan to như Chủ tịch Tập đoàn Tưởng Khiết Mẫn, các Phó TGĐ Vương Vĩnh Xuân, Lý Hoa Lâm, Nhuế Tân Quyền, Kế toán trưởng Tập đoàn Ôn Thanh Sơn… đều bị bắt. Nhóm thứ ba – chân rết trong ngành Công an: Sau khi Thứ trưởng (hàm Bộ trưởng) Công an Lý Đông Sinh bị bắt ngày 18/12/2013, cuộc thanh lọc ảnh hưởng của Chu Vĩnh Khang trong ngành Công an bắt đầu. 2 tháng sau, Cục trưởng An ninh quốc gia Bắc Kinh Lương Khắc bị cách chức; ngày 20/7/2014 Cục trưởng Công an Thiên Tân Vũ Trường Thuận bị điều tra; Phó chủ tịch HĐND tỉnh, nguyên Cục trưởng Công an Hà Nam Tần Ngọc Hải bị tạm giữ để điều tra…
Nhóm thứ tư – “bang Thư ký”: Cùng ngày 2/7/2014, 3 quan chức là Ký Văn Lâm, Phó tỉnh trưởng Hải Nam, Phó Văn phòng Ủy ban Chính trị – pháp luật Dư Cương, Tham mưu trưởng Cục Cảnh vệ Bộ CA Đàm Hồng bị bãi chức, bị cách ly để điều tra.
Cả 3 đều từng là thư ký của Chu Vĩnh Khang. Trước đó, 3 người khác cũng từng là thư ký của Chu là: Phó tỉnh trưởng Tứ Xuyên Quách Vĩnh Tường, Phó TGĐ Tập đoàn Dầu khí quốc gia Lý Hoa Lâm, Bí thư đảng ủy Cty Dầu khí quốc tế Thẩm Định Thành cũng bị bắt. Nhóm thứ năm – các thân nhân của Chu: Trước khi Chu Vĩnh Khang bị điều tra, bị bắt, hàng loạt người thân, họ hàng, thông gia đã bị bắt. Trong đó có: con trai lớn Chu Bân, con dâu Hoàng Uyển; vợ chồng thông gia Hoàng Dũ Sinh, Chiêm Mẫn Lợi; em trai thứ ba là Chu Nguyên Thanh và vợ là Chu Lệnh Anh, cháu là Chu Phong.
Theo Minh Anh
Pháp luật Việt Nam
"Lời đồn" Mỹ trực tiếp can thiệp Biển Đông?
Năm 2010, một điểm có lẽ sẽ thu hút được nhiều chú ý nhất là quan điểm cho rằng Mỹ có thể tham gia trực tiếp vào tranh chấp ở Biển Đông.
LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu Phần 2, Nghiên cứu Chính sách của Mỹ đối với tranh chấp tại biển Đông từ 1995* của M. Taylor Fravel. Tác giả là PGS Khoa học chính trị và là thành viên của Chương trình Nghiên cứu An ninh tại Viện Công nghệ Massachusetts.
Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, chính sách của Mỹ đối với các tranh chấp ở Biển Đông chủ yếu mang tính đối phó. Mỹ chỉ thay đổi nội dung chính sách khi xảy ra những sự kiện đe dọa các mối quan tâm của Mỹ tại khu vực này. Có thể xem xét chính sách mà Mỹ đã tuyên bố theo các bước ngoặt nổi bật.
1995: TQ chiếm bãi đá Vành Khăn
Lần đầu tiên Mỹ công khai đưa ra quan điểm về các tranh chấp trên Biển Đông là sau sự kiện TQ chiếm bãi đá Vành Khăn cuối năm 1994. Đáp lại mối lo ngại gia tăng về tình hình ổn định trong khu vực, tháng 5/1995, qua Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao, Mỹ đã đưa ra một tuyên bố chính sách. Theo tuyên bố này, chính sách của Mỹ có 5 điểm như sau:
(1) Giải pháp hòa bình đối với các tranh chấp: "Mỹ cực lực phản đối việc sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tuyên bố chồng lấn và hối thúc các bên ra tuyên bố kiềm chế và tránh những hành động gây mất ổn định."
(2) Hòa bình và ổn định: "Mỹ luôn muốn duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông."
(3) Tự do hàng hải: "Duy trì tự do hàng hải là mối quan tâm cơ bản của Mỹ. Quyền tự do đi lại của tất cả các tàu thuyền và máy bay trong khu vực Biển Đông là điều kiện cần để đảm bảo hòa bình và sự thịnh vượng của toàn bộ khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có Mỹ".
(4) Trung lập trong vấn đề chủ quyền: "Mỹ không đứng về bên nào về mặt pháp lý trong các tuyên bố chủ quyền chồng lấn đối với các đảo, dải đá ngầm, san hô, và bãi đá ở Biển Đông".
(5) Tôn trọng các quy định hàng hải, đặc biệt là UNCLOS: "Tuy nhiên, Mỹ sẽ nghiêm túc xem xét bất kỳ tuyên bố hàng hải hoặc hạn chế hoạt động hàng hải nào ở Biển Đông mà không phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982".
Sau khi TQ chiếm Vành Khăn, dù không biến mất hoàn toàn, song căng thẳng trong tranh chấp trên Biển Đông bắt đầu lắng dịu. Cuối thập niên 1990, TQ và ASEAN bắt đầu tiến trình đàm phán về một bộ quy tắc ứng xử đối với các tranh chấp trên Biển Đông. Năm 2002, hai bên đi đến thống nhất về việc đưa ra tuyên bố về một bộ quy tắc ứng xử, trong đó các bên cam kết tới một thời điểm nào đó sẽ cùng ký vào bộ quy tắc ứng xử có tính ràng buộc này.
Đá Vành Khăn (ảnh: Victor Robert Lee/ Thewangpost)
2010: Phản ứng trước các căng thẳng ngày càng tăng từ tất cả các bên tranh chấp
Năm 2010, Mỹ quyết định mở rộng và làm rõ chính sách của mình đối với Biển Đông nhằm đáp lại sự leo thang căng thẳng giữa các bên tuyên bố kể từ sau năm 2007. Trong suốt thời gian từ năm 2007 đến giữa năm 2010, tất cả các bên tuyên bố, đặc biệt là TQ đều chủ động hơn trong việc khẳng định tuyên bố chủ quyền của mình, và có lúc còn có hành động củng cố hoặc bảo vệ các yêu sách này, khiến tình hình càng thêm căng thẳng.
Cụ thể, TQ đã đe dọa các công ty dầu khí nước ngoài (trong đó có một số công ty Mỹ) đang đầu tư vào các khu khai thác ngoài khơi Việt Nam trong thời gian từ năm 2006 đến năm 2008, ra tuyên bố và phản đối tuyên bố về quyền khai thác thềm lục địa mở rộng tới một cơ quan của Liên hợp quốc, cố ý bắt giữ hàng trăm ngư dân Việt Nam hoạt động ở vùng nước gần quần đảo Hoàng Sa trong năm 2008 và 2009, cố tình cản trở hoạt động của tàu khu trục USNS Impeccable khi tàu này ở vị trí cách đảo Hải Nam khoảng 75 hải lý hồi tháng 3/2009, đính kèm một bản đồ có "đường chín đoạn" vào một công hàm gửi Liên hợp quốc hồi tháng 5/2009, áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá theo mùa ở khu vực phía bắc Biển Đông, gia tăng số lượng tàu tuần tra của các cơ quan chấp pháp ở các vùng nước tranh chấp, tăng tần suất và quy mô tập trận ở Biển Đông.
Đến năm 2009, Mỹ bắt đầu chú ý nhiều hơn đến Biển Đông. Có hai nguyên nhân mật thiết. Thứ nhất, lần đầu tiên TQ trực tiếp thách thức lợi ích thương mại của Mỹ, cụ thể là các công ty dầu khí của Mỹ đang hoạt động ngoài khơi Việt Nam năm 2008.
Thứ hai, việc TQ cản trở hoạt động của tàu khu trục USNS Impeccable và các tàu khảo sát khác của lực lượng hải quân Mỹ lại làm dấy lên câu hỏi về cách tiếp cận của TQ đối với vấn đề tự do hàng hải ở các vùng biển quốc tế.
Đến năm 2010, chính quyền của Tổng thống Obama quyết định cần đưa ra một tuyên bố mới về chính sách của Mỹ ở Biển Đông. Thời điểm được chọn là hội nghị hàng năm của Diễn đàn Khu vực ASEAN diễn ra vào tháng 7/2010. Trong suốt phiên họp kín, Mỹ và 12 nước khác đã bày tỏ mối lo ngại về tình trạng căng thẳng trên Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đưa ra tuyên bố công khai về lập trường của Mỹ, tính thời điểm đó đây là tuyên bố công khai ở cấp cao nhất của chính quyền Mỹ.
Trong tuyên bố của mình, bà Clinton khẳng định các điểm cốt lõi trong chính sách năm 1995, đồng thời cũng đưa thêm vào những điểm mới, cụ thể là:
(1) Không giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp cưỡng ép
(2) Ủng hộ "các bên theo đuổi một tiến trình ngoại giao hợp tác," Mỹ sẵn lòng "hỗ trợ các sáng kiến và các biện pháp xây dựng lòng tin, phù hợp với [Tuyên bố về Bộ Quy tắc Ứng xử năm 2002]
(3) Ủng hộ soạn thảo một bộ quy tắc ứng xử đầy đủ
(4) Giữ lập trường "các tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với không gian trên biển ở Biển Đông chỉ nên xuất phát từ tuyên bố chủ quyền hợp pháp đối với các thực thể".
Bản tuyên bố không nêu đích danh TQ. Tuy nhiên, nhiều yếu tố trong bài phát biểu của Ngoại trưởng Clinton nhắm trực tiếp vào TQ hơn bất kỳ bên tuyên bố nào khác.
Trước hết, cách nói "các tuyên bố chủ quyền hợp pháp" cho thấy Mỹ phản đối bất kỳ tuyên bố quyền trên biển nào của TQ dựa trên bản đồ đường chín đoạn. Thứ hai, việc nhấn mạnh vào "tiến trình hợp tác" ngụ ý tới các cuộc nói chuyện đa phương, trái ngược hẳn với mong muốn đàm phán song phương với từng bên tranh chấp của TQ.
Trong thời gian này, một điểm có lẽ sẽ thu hút được nhiều chú ý nhất là quan điểm cho rằng Mỹ có thể tham gia trực tiếp vào tranh chấp ở Biển Đông. Quan điểm này dựa trên một số lý lẽ.
Đó là, tại cuộc họp diễn ra vào tháng 7/2010 trong khuôn khổ Diễn đàn Khu vực ASEAN, Mỹ đã phối hợp với các nước khác (bao gồm cả các bên có tuyên bố trong tranh chấp và các bên không), cùng nhau, 12 quốc gia bày tỏ quan ngại về tình trạng căng thẳng ngày càng leo thang tại biển Đông, mà TQ góp phần gây ra.
Thứ 2, Mặc dù bà Clinton không tuyên bố rằng Mỹ sẽ trở thành một bên trong tranh chấp, song tuyên bố chính sách mới này rõ ràng ngụ ý rằng việc này có thể xảy ra, và cảm nhận này được giữ nguyên mà không có đính chính.
Bằng tuyên bố chính sách mới năm 2010, Mỹ cho thấy mình đã lên kế hoạch để vừa duy trì được sự trung lập trong vấn đề tranh chấp (chủ quyền lãnh thổ và quyền tài phán trên biển), vừa có thể tham gia vào cuộc tranh chấp theo một cách nào đó.
Cho đến mùa hè năm 2012, chính sách của Mỹ đối với các tranh chấp Biển Đông vẫn không có nhiều thay đổi đáng kể, ngoại trừ một ngoại lệ. Thảo luận về việc "tạo điều kiện" cho các cuộc đối thoại hoặc trao đổi đã không còn xuất hiện trong luận điểm mà quan chức Mỹ đưa ra. Tuy nhiên, Mỹ tiếp tục nhấn mạnh mối quan tâm của mình đến vấn đề tự do hàng hải, giải quyết hòa bình các tranh chấp và không sử dụng các biện pháp cưỡng ép. Mỹ cũng tiếp tục nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc các bên tranh chấp cùng tham gia đối thoại, và tuyên bố ủng hộ mạnh mẽ tiến trình đưa ra một bộ quy tắc ứng xử chung trên Biển Đông.
(Còn tiếp)
Theo Hà Trang (lược dịch theo RSIS)/Dantri
*Tên tiếng Anh của Nghiên cứu là "U.S. Policy Towards the Disputes in the South China Sea Since 1995". Tiêu đề các phần chuyển ngữ do Tuần Việt Nam đặt.
Chu Vĩnh Khang từ đỉnh cao quyền lực tới cáo buộc nhiều tội danh Cáo buộc lớn nhất đối với Chu Vĩnh Khang là tội nhận hối lộ và làm lộ bí mật quốc gia. Tân Hoa Xã ngày 6/12 của Trung Quốc dẫn lời nhà chức trách nước này cho biết, các công tố viên đã mở một cuộc điều tra chính thức đối với ông Chu Vĩnh Khang, cựu quan chức an ninh, cựu Ủy...