Quy mô khổng lồ của Hạm đội Thái Bình Dương Mỹ
Tiền thân của Hạm đội Thái Bình Dương là Phân hạm đội Thái Bình Dương và Phân hạm đội Đông Ấn.
Ngày 15/4/1907, Phân hạm đội Thái Bình Dương hợp nhất với Phân hạm đội châu Á thành Hạm đội Thái Bình Dương. Năm 1922, Hạm đội Thái Bình Dương và Hạm đội Đại Tây Dương hợp nhất thành Hạm đội Mỹ. Ngày 1/2/1940, thực hiện chủ trương “ Hải quân 2 đại dương”, Hạm đội Thái Bình Dương và Hạm đội Đại Tây Dương được tái lập.
Giai đoạn Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Hạm đội Thái Bình Dương đã tham gia nhiều chiến dịch quan trọng. Giai đoạn sau đó, do Mỹ chú trọng khu vực châu Âu nên quy mô của Hạm đội Thái Bình Dương bị thu nhỏ, nhiều ưu tiên được giành cho Hạm đội Đại Tây Dương.
Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ. Ảnh: Defensenews
Từ sau Chiến tranh Lạnh đến nay, trọng điểm chiến lược của Mỹ từng bước chuyển sang khu vực châu Á – Thái Bình Dương, lực lượng của Hạm đội Thái Bình Dương cũng từng bước được tăng cường, vị trí của Hạm đội Thái Bình Dương ngày càng trở nên quan trọng.
Đến nay, Hạm đội Thái Bình Dương trở thành tập đoàn tác chiến hải quân mạnh nhất của Mỹ, chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và đại bộ phận Bắc Băng Dương (chiếm 70% tổng diện tích biển và đại dương toàn cầu, lớn gấp 2,55 lần diện tích khu vực quản lý của Hạm đội Đại Tây Dương).
Tập đoàn tác chiến hải quân mạnh nhất của Mỹ
Nhiệm vụ chủ yếu của Hạm đội Thái Bình Dương là: Phòng ngự trên biển hướng bờ Tây nước Mỹ và tác chiến trên biển trong các khu vực tác chiến Thái Bình Dương và trung tâm; Huấn luyện cho lực lượng tác chiến hải quân thuộc các Bộ tư lệnh Thái Bình Dương, Bộ tư lệnh Trung tâm, Bộ tư lệnh Phương Bắc, Bộ tư lệnh Phương Nam, Bộ tư lệnh chiến lược và các bộ tư lệnh khác. Bộ tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đóng tại căn cứ Trân Châu Cảng, Hawaii.
Hạm đội Thái Bình Dương được biên chế thành 3 hạm đội lớn là Hạm đội 3, Hạm đội 5 và Hạm đội 7.
Hạm đội 3 đóng tại căn cứ San Diego, California. Nhiệm vụ chủ yếu là chỉ huy tác chiến trên biển ở khu vực Đông Thái Bình Dương. Kỳ hạm là tàu chỉ huy Koronod.
Video đang HOT
Hạm đội 5 đóng tại Manamah, Bharain, nhiệm vụ chủ yếu là chỉ huy tác chiến trên biển ở khu vực Trung Đông. Đây là hạm đội duy nhất của hải quân Mỹ không có kỳ hạm và lực lượng thường trực cố định. Toàn bộ lực lượng của hạm đội đều do bộ phận đóng tại Mỹ và Hawaii luân phiên đổi trực 6 tháng 1 lần.
Khi xảy ra chiến tranh, Hạm đội 5 sẽ được tăng cường lực lượng từ các hạm đội khác. Trong các cuộc chiến tranh ở khu vực Trung Đông, Hạm đội 5 luôn là nòng cốt trong việc tổ chức chỉ huy tác chiến trên biển.
Hạm đội 7 đóng tại căn cứ Yokosuka, Nhật Bản. Kỳ hạm là tàu chỉ huy Blue Ridge, khi tàu này phải sửa chữa lớn thì tàu chỉ huy Koronod sẽ thay thế.
Đây là hạm đội tiền duyên lớn nhất của hải quân Mỹ trên khu vực châu Á – Thái Bình Dương với phạm vi hoạt động rộng lớn, gồm: Tây Bắc Thái Bình Dương, Tây Thái Bình Dương, Tây Nam Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và biển Ảrập; phía bắc tới quần đảo Thousand, phía nam tới châu Nam Cực, phía đông bắt đầu từ Đường đổi ngày (gần kinh tuyến 180 độ kinh Đông từ Bắc Cực qua eo biển Bering, Thái Bình Dương cho đến Nam Cực), phía tây qua Ấn Độ Dương tới bờ biển phía đông châu Phi.
Để đảm trách được địa bàn rộng lớn này, lực lượng tác chiến của Hạm đội 7 thường tổ chức biên chế thành nhiều hạm đội đặc nhiệm hỗn hợp để thực hiện những nhiệm vụ tác chiến khác nhau.
Lực lượng hùng hậu
Lực lượng của Hạm đội Thái Bình Dương khi cao nhất khoảng 230.000 quân (gồm cả hơn 90.000 lính hải quân đánh bộ), 230 tàu chiến và 1.600 máy bay các loại. Trong đó, tàu chiến thường gồm: 6 tàu sân bay, 10 tàu ngầm tên lửa hạt nhân chiến lược, 26 tàu ngầm tấn công động lực hạt nhân, 12 tàu tuần dương tên lửa, 28 tàu khu trục tên lửa, 15 tàu hộ vệ tên lửa, 19 tàu tác chiến thủy/bộ, 6 tàu quét lôi, 4 tàu tuần tiễu, 100 tàu đảm bảo hậu cần và vận tải…
Lực lượng tàu chiến của Hạm đội Thái Bình Dương được chia thành 4 Bộ tư lệnh tác chiến: Bộ tư lệnh tàu mặt nước, Bộ tư lệnh hàng không, Bộ tư lệnh tàu ngầm và Bộ tư lệnh hải quân đánh bộ hạm đội.
Hạm đội Thái Bình Dương có 41 căn cứ, trong đó, 27 căn cứ đóng tại phía tây bờ biển nước Mỹ, 3 căn cứ tại Hawaii, 2 căn cứ tại đảo Guam, 6 căn cứ đóng tại Nhật Bản, 1 căn cứ tại Singapore, 1 căn cứ tại Diego Garcia – Ấn Độ Dương, 1 căn cứ đóng tại Bharain.
Với vai trò là một trong những tập đoàn tác chiến mạnh nhất trên toàn cầu hiện nay, lực lượng của Hạm đội Thái Bình Dương đang là nòng cốt trong việc thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của Mỹ đối với khu vực Thái Bình Dương – Ấn Độ Dương như: Kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc; Giám sát, xử lí tình hình bán đảo Triều Tiên cũng như vấn đề hạt nhân của Iran…
Liệu Mỹ đã biết trước nhưng lừa Nhật tấn công Trân Châu Cảng?
Ngày 7/12/1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng.
1. Cuộc tấn công không báo trước
Trong vòng vài giờ, quân Nhật cũng đánh Philippines, Wake Island, Guam cùng các mục tiêu khác ở Thái Bình Dương. Các căn cứ của Mỹ ở nơi nào cũng bị bất ngờ.
Ảnh minh họa.
Điều kì lạ là các căn cứ quân sự Mỹ không hề được cảnh báo về một cuộc tấn công quy mô lớn của Nhật.
Vì thế khi quân Nhật tấn công, quân đội Mỹ đã hoàn toàn bị bất ngờ, toàn bộ các chiến hạm của Mỹ đều bị đánh chìm hoặc bị hư hỏng nặng, 2400 lính Mỹ thiệt mạng.
Một ủy ban của quốc hội Mỹ đã tiến hành điều trần sâu rộng về thảm họa Trân Châu Cảng sau khi chiến tranh kết thúc.
Trong số những kết luận được đưa ra có kết luận rằng lực lượng Mỹ đã tập trung quá nhiều vào huấn luyện đến nỗi họ bị "mù" trước một cuộc tấn công có thể xảy ra.
Các chỉ huy quân đội Mỹ đã quá lo lắng về sự phá hoại đến nỗi họ "khóa" hết các kho đạn dược chống máy bay, thay vì phân phát nó cho các điểm bắn. Hải quân không duy trì các cuộc tuần tra bằng máy bay trên biển do thiếu thiết bị.
Ngoài ra, hai nhà sử học Jonathan Parshall và J. Michael Wenger cho biết trên tạp chí Lịch sử Hải quân lý do Mỹ bị bất ngờ là các chỉ huy không hiểu được một cuộc chiến với sự tham gia của tàu sân bay phát triển nhanh tới mức nào.
2. Liệu đây có phải khổ nhục kế của Roosevelt
Tuy nhiên, càng điều tra người ta càng phát hiện ra những điều bí ẩn và khó giải thích. Nhiều người cho rằng đây chính là một khổ nhục kế của Chính phủ Mỹ.
Dù chính phủ Mỹ gọi đây là " cuộc tấn công bất ngờ " của Nhật Bản, nhưng giới chức lại cho rằng Tổng thống Roosevelt biết trước về cuộc tấn công này.
Tuy nhiên ông đã chọn cách "im lặng" vì ông tin rằng cú sốc của cuộc tấn công sẽ thuyết phục người Mỹ về sự cần thiết can dự vào cuộc chiến.
Quả nhiên, chỉ một ngày sau vụ tấn công ở Trân Châu Cảng, được sự chấp thuận của Quốc hội Mỹ, Tổng thống Roosevelt tuyên chiến với Nhật Bản, chính thức đưa nước Mỹ tham gia vào Thế chiến thứ 2.
Điều đó càng có sức thuyết phục hơn khi người ta đặt câu hỏi tại sao radar của quân Mỹ không thể phát hiện nổi 6 tàu chiến của Nhật chở theo 400 chiếc máy bay đậu cách mục tiêu 350km?
Tối 6/12/1941, ngay trước ngày Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng, tại Nhà Trắng, Tổng thống Roosevelt triệu tập một cuộc họp hiếm có mà thành phần tham dự là những cố vấn chiến tranh cao cấp.
Bao gồm trong đó có Đô đốc hải quân Mỹ Knox, Tư lệnh Tác chiến hải quân Stark, Bộ trưởng Chiến tranh Stimson và Cố vấn Tình báo Harry Hopkins.
Không khí trong phòng Bầu dục hết sức nặng nề. Dường như họ đang chờ đợi những gì sắp xảy ra với hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ tại Trân Châu Cảng?
Theo Nguyen Thuy Quynh/Khỏe & Đẹp
'Phim trường' che mắt địch của Mỹ trong Thế chiến II Nỗi ám ảnh Trân Châu Cảng khiến Mỹ cảnh giác cao độ trước mối đe dọa từ Nhật và quyết tâm thực hiện chiến dịch ngụy trang quy mô lớn. Năm 1941, giữa lúc Thế chiến II đang sôi sục, nước Mỹ vẫn tương đối yên bình, cho đến khi phát xít Nhật tấn công vào Trân Châu Cảng thuộc bang Hawaii. Cuộc...