Quy hoạch Điện VIII dự kiến bỏ nhiều dự án nhiệt điện than
Bộ Công Thương vừa có văn bản số 4329/BCT-ĐL báo cáo Chính phủ về các nội dung của Quy hoạch Điện VIII; trong đó, bộ này xin ý kiến Chính phủ không đưa vào Quy hoạch 14.120 MW nhiệt điện than để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 – Net Zero đến năm 2050.
Các nhà máy trong trung tâm Nhiệt điện Vinh Tân phần lớn đều chạy bằng than. Ảnh: Ngọc Hà/TTXVN
Cụ thể, Bộ Công Thương cho biết đã rà soát các dự án điện than, điện khí đã có trong Quy hoạch Điện VII điều chỉnh đến nay không đưa vào dự thảo Quy hoạch Điện VIII theo yêu cầu thực hiện các cam kết tại COP26.
Trong tổng công suất 14.120 MW nhiệt điện than không đưa vào Quy hoạch Điện VIII thì có 8.420 MW do các tập đoàn nhà nước được giao làm chủ đầu tư.
Cụ thể, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) được giao 3.600 MW gồm các dự án: Quảng Trạch II, Tân Phước I và Tân Phước II. Tập đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) được giao 1.980 MW là Long Phú III. Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) được giao 2.840 MW gồm: Cẩm Phả III, Hải Phòng III và Quỳnh Lập I. Dự án đầu tư theo hình thức BOT là 4.500 MW gồm Quỳnh Lập II, Vũng Áng 3, Long Phú II và dự án Quảng Ninh III chưa giao nhà đầu tư có công suất 1.200 MW.
Trong quá trình rà soát, đánh giá những vấn đề pháp lý khi không xem xét phát triển các dự án điện than nêu trên, Bộ Công Thương cho rằng, đối với các dự án do các tập đoàn nhà nước được giao làm chủ đầu tư, rủi ro pháp lý là không có, các chi phí phát triển dự án do các tập đoàn bỏ ra không lớn và cơ bản sẽ được xử lý theo quy định.
Riêng với 3 dự án đầu tư theo hình thức BOT, chủ đầu tư các dự án Vũng Áng 3, Long Phú II đã có văn bản xin rút khỏi dự án và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý để các chủ đầu tư gồm: Công ty Samsung C&T và Công ty TATA dừng phát triển dự án.
Dự án BOT Quỳnh Lập II mới được Thủ tướng Chính phủ giao Công ty Posco Enreneergy nghiên cứu phát triển dự án Nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lập II công suất 1.200 MW nhưng chưa chính thức giao công ty này làm chủ đầu tư.
Hiện nay, Posco Energy cũng đã có nhiều văn bản xác nhận không nghiên cứu phát triển dự án Quỳnh Lập II sử dụng than mà đề xuất chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng khí LNG và nâng công suất dự án. Tuy nhiên, dự án này được phát triển theo hình thức BOT và Posco Energy có được làm chủ đầu tư dự án tiếp hay không phải theo quy định Luật Đầu tư theo đối tác công tư (PPP).
Video đang HOT
Ngoài ra, các dự án điện khí gồm: Kiên Giang I và II, quy mô công suất 2×750 MW, do PVN làm chủ đầu tư, dự kiến vận hành giai đoạn 2021-2022 chi phí bỏ ra phát triển khoảng 1 tỷ đồng. Các dự án này không được xem xét trong Quy hoạch Điện VIII đến năm 2030 do không xác định được nguồn nhiên liệu.
Bộ Công Thương nêu, việc không đưa các dự án nhiệt điện than, khí nêu trên phù hợp với đề nghị của các địa phương, kiến nghị của các chủ đầu tư nên không có rủi ro về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, một số chi phí của các tập đoàn thuộc sở hữu nhà nước đã bỏ ra để khảo sát, chuẩn bị đầu tư dự án, các tập đoàn có trách nhiệm xử lý theo quy định.
“Bộ Công Thương xin ý kiến Thường trực Chính phủ việc loại bỏ các dự án điện than không còn phù hợp nêu trên nhằm đáp ứng cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26″, văn bản của Bộ Công Thương đề xuất.
Trong báo cáo gửi Thường trực Chính phủ, Bộ Công Thương cho biết, đã tính toán với 3 kịch bản phụ tải, phát triển nguồn điện. Trong đó, ở kịch bản phụ tải cơ sở, tổng công suất các nhà máy điện năm 2030 đạt gần 121.000 MW và năm 2045 đạt 284.000 MW. Ở phương án này, nhiệt điện than sẽ đạt gần 37.467 MW, chiếm 31% vào năm 2030 và giữ nguyên tới năm 2045, chiếm 13,2%.
Với kịch bản phục tải cao, tổng công suất các nhà máy điện năm 2030 đạt hơn 134.700 MW và năm 2040 đạt 387.875 MW. Trong đó nhiệt điện than vẫn là 37.467 MW, chiếm 27,8% năm 2030 và giữ nguyên cho tới 2045, chiếm 9,7%.
Với kịch bản phụ tải cao phục vụ điều hành, năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện đạt 145.930 MW; trong đó nhiệt điện than chiếm 25,7% vào năm 2030 và 9,7% vào năm 2045…
Thay vào đó, dự thảo Quy hoạch Điện VIII được tính toán và đưa phương án thay thế công suất nhiệt điện than bằng khoảng 14.000 MW điện khí LNG trong giai đoạn 2030-2045. Điện gió sẽ được tập trung phát triển mạnh.
Ở kịch bản cơ sở, điện gió trên bờ đạt 11.700 MW (chiếm 9,5%) vào năm 2030 và đạt 36.170 MW (chiếm 12,7% vào năm 2045. Điện gió ngoài khơi đạt 30.000 MW (chiếm 10,5%) vào năm 2045.
Tại kịch bản phụ tải cao, điện gió trên bờ đạt 13.921 MW vào năm 2030 và đạt 55.950 MW vào năm 2045. Điện gió ngoài khơi đạt 64.500 MW vào năm 2045.
Bộ Công Thương cũng kiến nghị tiếp tục đưa vào quy hoạch hơn 2.428 MW điện mặt trời đến năm 2030. Đây là các dự án, hoặc phần dự án đã được quy hoạch, chấp thuận nhà đầu tư nhưng chưa vận hành… với tổng chi phí đầu tư khoảng 12.700 tỷ đồng. Việc này được giải thích là để tránh rủi ro pháp lý, khiếu kiện và đền bù cho các nhà đầu tư.
Với các dự án điện mặt trời đã quy hoạch nhưng chưa được chấp thuận nhà đầu tư, tổng công suất trên 4.136 MW, Bộ Công Thương đề nghị giãn sang giai đoạn sau năm 2030 mới phát triển tiếp để đảm bảo tỷ lệ hợp lý của các nguồn điện năng lượng tái tạo trong hệ thống.
Trường hợp nếu các nguồn điện khác chậm tiến độ, và điều kiện kỹ thuật hệ thống điện tốt hơn, đảm bảo hấp thụ mức độ cao hơn điện mặt trời và an toàn, kinh tế các nguồn điện khác trong hệ thống…, cơ quan quản lý sẽ cân nhắc, báo cáo Chính phủ việc có cần đẩy sớm vận hành số dự án này hay không…
Bộ Công Thương đưa ra kiến nghị mới về phát triển điện mặt trời, điện khí LNG
Bộ Công Thương vừa có văn bản số 3787/BCT-ĐL báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát một số nội dung của quy hoạch điện VIII.
Một dự án điện mặt trời mái nhà tại Gia Lai. Ảnh: Hồng Điệp/TTXVN
Theo đó, Bộ này kiến nghị được triển khai các dự án, phần dự án điện mặt trời đã hoàn thành thi công và dự án đã được chấp thuận nhà đầu tư đến năm 2030...
Tại báo cáo này, Bộ Công Thương đã nêu ra những kiến nghị cụ thể, mong muốn được Thủ tướng Chính phủ xem xét chấp thuận.
Cụ thể, tiếp tục cho phép triển khai để đưa vào vận hành trong giai đoạn đến năm 2030, các dự án, hoặc phần dự án đã hoàn thành thi công với tổng công suất khoảng 452,62 MW và các dự án đã được quy hoạch, đã được chấp thuận nhà đầu tư với tổng công suất khoảng 1.975,8 MW nhưng chưa vận hành.
Bộ cũng lưu ý, các dự án này cần phải tuân thủ theo đúng các quy định pháp luật về đầu tư, xây dựng, bám sát khả năng hấp thụ của hệ thống điện quốc gia và khả năng giải tỏa công suất của lưới điện; tuân thủ theo đúng cơ chế giá điện tại thời điểm đưa vào vận hành, tự chịu trách nhiệm về hiệu quả dự án theo cơ chế được duyệt.
Bộ Công Thương cũng kiến nghị, giãn tiến độ các dự án đã được quy hoạch nhưng chưa được chấp thuận nhà đầu tư với tổng công suất 4.136,25 MW sang giai đoạn sau năm 2030.
"Định kỳ hàng năm thực hiện rà soát, tính toán khả năng hấp thụ của hệ thống điện quốc gia và khả năng giải tỏa công suất cục bộ, vận hành an toàn kinh tế của hệ thống. Trường hợp cần thiết, xem xét báo cáo Chính phủ cho phép đẩy lên giai đoạn trước năm 2030 nếu các nguồn khác chậm tiến độ để đảm bảo cung ứng điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và tranh thủ mức giá ngày càng rẻ của điện mặt trời", Bộ Công Thương cho hay.
Còn về quy hoạch điện khí LNG nhập khẩu, Bộ Công Thương khẳng định, các dự án LNG dự kiến phát triển trong Quy hoạch điện VIII đến năm 2030 với tổng công suất 23.900 MW (chiếm 16,4%) là cần thiết.
Việc nhu cầu cần nhập khẩu LNG dự kiến là 14-18 tỷ m3 vào năm 2030 và 13-16 tỷ m3 vào năm 2045, cao hơn mục tiêu Nghị quyết 55-NQ/TW đã nêu "Đủ năng lực nhập khẩu khi tự nhiên hỏa lỏng LNG khoảng 8 tỷ m3 vào năm 2030 và khoảng 15 tỷ m3 vào năm 2045", Bộ Công Thương kiến nghị, Thủ tướng Chính phủ cân nhắc sự cần thiết xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị hoặc hướng dẫn của Ban Kinh tế Trung ương về các chỉ tiêu nêu trên trước khi phê duyệt Quy hoạch điện VIII.
Bộ Công Thương cũng lựa chọn kịch bản cao trong Dự thảo quy hoạch điện VIII. Theo đó, tổng công suất lắp đặt đến 2030 (không tính điện mặt trời mái nhà, nguồn tự cung tự cấp) là 145.930 MW.
Trong cơ cấu nguồn, công suất điện than là 37.467 MW chiếm 25,7%; thủy điện 28.946 MW chiếm 19,8%; LNG nhập khẩu 23.900 MW, chiếm 16,4%; nguồn tuabin sử dụng khí khai thác trong nước 14.930 MW chiếm 10,2%; điện gió trên bờ 16.121 MW chiếm 11%; điện gió ngoài khơi 7.000 MW chiếm 4,8%; điện mặt trời quy mô lớn 8.736 MW chiếm 6%; nguồn khác (sinh khối, thủy điện tích năng, pin lưu trữ, hydrogen...) 3.830 MW chiếm 2,8%; nhập khẩu điện 5.000 MW chiếm 3,4%.
Trước đó, tại Công thư số 182, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Bộ Công Thương phải có quan điểm rõ ràng về việc phát triển điện mặt trời đến năm 2030 bởi tại công văn 2279 (ngày 29/4/2022) báo cáo về Dự thảo Quy hoạch điện VIII, Bộ này cho biết, trong vòng 10 năm tới (từ 2021-2030) không đưa vào quy hoạch phát triển điện mặt trời và giãn tiến độ các dự án đã có trong quy hoạch giai đoạn trên (tổng công suất 6.200 MW) song chưa triển khai, sang giai đoạn sau 2030.
Nhưng, tại công văn 2715 (ngày 20/5/2022), Bộ này lại đề nghị xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ "hướng xử lý nên như thế nào" đối với 6.200 MW điện mặt trời đã có trong quy hoạch điện VII điều chỉnh nêu trên.
Báo cáo về điều này, Bộ Công Thương cho hay, dù không đưa vào Quy hoạch điện VIII những nguồn điện trên, nhưng khi xem xét tới các rủi ro về pháp lý có thể phát sinh trong trường hợp giãn tiến độ của các dự án trên và tính chuyển đổi, giúp giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu. Vì thế, cần được xem xét triển khai, với điều kiện phải được kiểm soát chặt chẽ...
Cần khơi thông chính sách cho năng lượng tái tạo Theo các chuyên gia nhận định, để ngành năng lượng tái tạo tại Việt Nam phát triển, trong giai đoạn tới cần có khung chính sách cởi mở, minh bạch hơn nữa. Các đại biểu tham dự diễn đàn "Cơ chế thu hút đầu tư phát triển bền vững năng lượng tái tạo tại Việt Nam" chiều 26/11. Chia sẻ tại Diễn đàn...