Quảng Nam: Cả làng này “phất lên” nhờ nghề làm chổi đót
Về làng nghề chổi đót Thạnh Hòa (xã Quế Xuân 1, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam), nhiều người ngỡ ngàng bởi sự đổi thay của vùng quê này.
Nhà cửa khang trang, đường xá thuận lợi, cổng ngõ đẹp đẽ và những sân chứa đầy đót, nhà nhà làm chổi đót.
Quyết tâm giữ lửa nghề chổi đót Thạnh Hòa
Ông Phan Văn Thành – Phó Chủ tịch UBND xã Quế Xuân 1 cho biết, làng nghề chổi đót Thạnh Hòa có truyền thống hơn 30 năm qua. Trải qua nhiều thăng trầm, người dân làng chổi đót Thạnh Hòa vẫn bền bỉ giữ nghề.
Bà Huỳnh Thị Xuân (67 tuổi) đã gắn bó với nghề làm chổi đót ở Thạnh Hòa từ thuở mới ban sơ lập nghiệp.
Hiện nay, làng nghề có khoảng 60 hộ tham gia sản xuất thường xuyên; ở đây, hầu như nhà nào cũng biết làm chổi đót. Nhờ nghề này mà nhiều hộ vươn lên thoát nghèo, ổn định cuộc sống.
Gắn bó với cây đót gần 30 năm, bà Huỳnh Thị Xuân tìm tòi học nghề làm chổi từ các cụ cao niên, sau đó lên tận miền núi để hái đót tươi về bện chổi. Nhớ lại những năm tháng thăng trầm với nghề, bà Xuân nghẹn ngào: “Khi xưa làng này nghèo lắm, đất canh tác thì ít mà rỗi nghề thì nhiều…”.
Theo bà Xuân, thấy được lợi ích kinh tế từ nghề làm chổi đót, tôi đã mạnh dạn học và giữ nghề cho đến bây giờ. Tuy nghề này không đem lại thu nhập cao nhưng giúp tôi và nhiều hộ trong thôn thoát nghèo, ổn định cuộc sống, nuôi con cái ăn học đàng hoàng”.
Theo bà Xuân, vì nghề làm chổi đót không khó nên mọi người trong làng ai cũng học được, cùng chỉ dạy nhau để phát triển kinh tế. Cây đót chỉ vào mùa hái bông một lần trong năm (tháng Giêng), nên lúc này nhà nào trong thôn cũng rộn ràng mua đót về phơi trữ.
Nhà nhiều thì phơi cả sân đót 50 triệu, nhà ít thì phơi cũng được vài trăm kí. Bông đót tươi được mua từ miền núi Đại Lộc, Đông Giang, Tây Giang, và tỉnh Quảng Ngãi… với giá trung bình 70.000 đồng/kg.
Đót tươi được mua từ các huyện Đại Lộc, Đông Giang (Quảng Nam), tỉnh Quảng Ngãi… với giá 70.000 đồng/kg. Sau khi phơi đủ 5-6 nắng, người dân sẽ cất trữ đót khô để có đủ nguyên liệu làm chổi quanh năm.
Video đang HOT
Chị Lan (Tổ trưởng làng nghề chổi đót Thạnh Hòa) chia sẻ, đa số người dân trong thôn sản xuất theo hộ gia đình nhỏ lẻ, tranh thủ lúc nông nhàn để làm chổi kiếm thêm thu nhập. Khi thị trường có nhu cầu tiêu thụ chổi ngày càng mạnh, thì nghề làm chổi đót trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ. Đến mùa đót tươi, bà con mạnh dạn đầu tư vốn mua đót về phơi cất trữ, hoặc vay vốn để có tiền mua nguyên liệu sản xuất lâu dài.
Bình quân mỗi ngày, vợ chồng chị Thôi làm được 100 cây chổi, mỗi cây 25.000 đồng, trừ đi chi phí thu lời khoảng 200.000 đồng.
Để làm nên một cây chổi chất lượng, thì nguyên liệu đót phải đảm bảo được phơi đủ nắng, có màu xám xanh đẹp mắt. Vì phơi ba tấn đót tươi, mới được một tấn đót khô nên giá thành đót khô khá cao, dao động từ 17.000-20.000 đồng/kg.
Nghề chổi đót giúp các hộ dân ổn định
Làng nghề chổi đót Thạnh Hòa không chỉ làm ra những cây chổi đót thủ công bền, đẹp, chắc, mà còn luôn đổi mới sản xuất để làm ra những sản phẩm hợp với thị hiếu của thị trường. Bên cạnh sản phẩm chủ lực truyền thống là chổi đót bện mây, thì những loại chổi mới như: chổi đót cán nhựa, chổi đót quấn dây cước, chổi hộp… cũng được nhiều hộ đẩy mạnh sản xuất.
Để nâng cao năng suất và cải thiện thu nhập, các hộ nghề đẩy mạnh làm chổi đót cán nhựa, cán trúc, chổi hộp. Mỗi cây chổi đót dao động từ 18.000-30.000 đồng (tùy vào độ dày, mỏng).
Chị Thôi, người có hàng chục năm tuổi nghề làm chổi vui vẻ nói: “Sinh ra đã biết làm chổi nên sống cũng nhờ vào bông đót, sợi mây, dây cước. Nhưng từ khi lập gia đình, chị và chồng ngoài việc làm chổi, còn nuôi thêm vài trăm con vịt để ổn định kinh tế gia đình. Nếu tranh thủ được nhiều thời gian trong ngày thì hai vợ chồng làm được 100 cây chổi nhựa (20.000-25.000 đồng/cây), trừ đi chi phí tôi lãi khoảng hơn 200.000 đồng/ngày”.
Làng nghề chổi đót Thạnh Hòa có khoảng 60 hộ tham gia sản xuất thường xuyên và hầu như nhà nào cũng biết làm chổi đót.
Cạnh nhà chị Thôi cũng có hai hộ làm chổi đót, theo xu hướng của người tiêu dùng mà họ đã chuyển đổi từ làm chổi đót cán mây sang chổi cán nhựa, cán trúc. Nhờ vậy, nhà nghề giảm được công sức và tiết kiệm thời gian làm việc, nâng cao năng suất.
Anh Bùi Chuyên (50 tuổi), tay vừa bắn vít vào cán chổi vừa cho biết: “Lúc trước nhà tôi làm chổi đót bện mây, một ngày chỉ bện được khoảng 20 cây nên mức thu nhập thấp. Gần ba năm nay, hai vợ chồng chuyển sang làm chổi cán nhựa vì làm nhanh tay hơn, không đòi hỏi quá khéo léo, lại tiện lợi nên hàng bán rất chạy, nhanh có lãi hơn trước. Cứ mỗi sáng, thương lái lại đến tận nhà mua hết số chổi vừa làm hôm qua (trung bình 50 cây/ngày) nên tôi phấn khởi lắm”.
Dù thị trường luôn có sự cạnh tranh lớn về mẫu mã, chất lượng, giá cả nhưng chổi đót Thạnh Hòa vẫn luôn đứng vững và ngày một phát triển về quy mô.
Được biết, chổi đót Thạnh Hòa được xuất bán đi nhiều nơi trong và ngoài tỉnh, được đông đảo khách hàng tin dùng. Điều đó giúp dân làng hứng khởi hơn trong duy trì sản xuất và tự hào về chất lượng, thương hiệu của làng nghề truyền thống. Bằng cách kết hợp làm chổi đót với sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc gia cầm, bà con thôn Thạnh Hòa đã có đời sống ổn định, kinh tế phát triển bền vững và tiếp tục gắn bó với nghề làm chổi.
“Thời gian qua, địa phương đã tạo điều kiện cho các hộ sản xuất chổi đót Thạnh Hòa vay vốn sản xuất, khuyến khích các hộ mở rộng quy mô để giải quyết lao động, nâng cao thu nhập. Bên cạnh đó, chính quyền địa phương cũng đang định hướng thành lập HTX chổi đót Thạnh Hòa giúp ổn định quy mô sản xuất cũng như đầu ra sản phẩm cho bà con, nhằm xây dựng thương hiệu chổi đót Thạnh Hòa ngày càng bay xa…”, ông Phan Văn Thành – Phó Chủ tịch UBND xã Quế Xuân 1 cho hay.
Chàng trai bỏ phố về quê "hồi sinh" chè An Bằng nức tiếng xứ Quảng
Vùng chè xanh Đại Thạnh được hợp thành từ 3 thôn An Bằng, Tây Lễ và Mỹ Lễ với tổng diện tích khoảng 30ha. Trong đó, thôn An Bằng là vùng trồng chè lớn nhất hiện nay, với diện tích 20ha chè xanh.
Xã Đại Thạnh (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) được người dân gần xa biết đến là vùng trồng chè thơm ngon có tuổi thọ hàng trăm năm. Tuy nhiên, trải qua nhiều thăng trầm, cây chè ngày càng lép vế và dần bị thay thế bởi những loại cây trồng khác. Nhìn thấy những vườn chè đặc sản dần biến mất, chàng trai Ngô Văn Chi không đành lòng và đã mạnh dạn bỏ công việc ở thành phố về quê khôi phục lại vùng chè An Bằng.
Liên kết, giúp người dân thu nhập ổn định
Vùng chè xanh Đại Thạnh được hợp thành từ 3 thôn An Bằng, Tây Lễ và Mỹ Lễ với tổng diện tích khoảng 30ha. Trong đó, thôn An Bằng là vùng trồng chè lớn nhất hiện nay, với diện tích 20ha chè xanh. Tại đây chỉ còn gần 100 hộ trồng chè, đa số người dân đã chuyển sang trồng cây keo, hoặc làm những công việc khác để mưu sinh.
Anh Ngô Văn Chi đã rời bỏ công việc ở thành phố, để về quê đầu tư và khôi phục vùng chè An Bằng, xã Đại Thạnh (huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam). p.v
Trước đây, chè An Bằng chủ yếu được bán lá tươi cho thương lái về bán tại các chợ, phương pháp làm chè khô cũng dần bị mai một và quên lãng. Chính vì thế, tháng 3/2019, anh Ngô Văn Chi (33 tuổi, trú thôn An Bằng, xã Đại Thạnh, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) đã quyết định về quê thành lập Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp và Dịch vụ Đại Thạnh Phát, để khôi phục lại vùng trồng chè Đại Thạnh nổi danh một thời.
Đến tháng 8/2019, anh Chi cùng 6 thành viên khác trong HTX có cơ hội tham gia dự án sản xuất chè An Bằng theo chuỗi liên kết giá trị, gắn với tiêu thụ sản phẩm do UBND xã Đại Thạnh hỗ trợ vốn 245 triệu đồng. Từ nguồn lực quý báu này, HTX Đại Thạnh Phát đã đầu tư máy móc sản xuất, vườn ươm cây giống, phân bón và hệ thống nước tưới cho nhiều hộ dân trồng chè tại thôn An Bằng.
Trò chuyện với chúng tôi, anh Ngô Văn Chi chia sẻ: "Vùng chè An Bằng có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển mạnh, nhưng vì lợi nhuận thấp nên bà con chuyển sang trồng cây keo khiến thương hiệu chè xanh An Bằng dần mất đi. Từ đó, tôi trăn trở và quyết định bỏ công việc kỹ thuật điện để về quê hợp tác khôi phục và phát triển sản phẩm chè An Bằng theo một hướng hoàn toàn mới, đó là liên kết phát triển vùng chè nguyên liệu, chế biến các sản phẩm mới từ chè và lấy tên Bancha An Bằng".
Chè Bancha An Bằng chứa lượng caffein rất ít nên hạn chế chứng mất ngủ, giúp tiêu hóa tốt, điều hòa thân nhiệt, trợ tim, bổ thần kinh... p.v
Ông Đoàn Ngọc Hà (60 tuổi, ở thôn An Bằng, xã Đại Thạnh) cho biết, trước đây chè An Bằng thơm ngon nức tiếng xứ Quảng, nhưng theo thời gian nghề trồng chè không còn thịnh như trước, đặc biệt là đầu ra khó khăn hơn do phải cạnh tranh với nhiều sản phẩm chè công nghiệp, chè làm từ các loại nguyên liệu khác.
Bản thân ông Hà đã có hơn 40 năm trồng chè, với diện tích 5 sào (trong đó có 2 sào mới khôi phục, chưa khai thác), nhưng do đầu ra không ổn định nên gia đình ông chỉ sản xuất cầm chừng, trồng vì đam mê và gìn giữ nghề truyền thống, chứ so với một số cây trồng khác thì hiệu quả kinh tế kém hơn.
"Từ ngày HTX Đại Thạnh Phát ra đời, HTX đã bao tiêu sản phẩm, đảm bảo thu gom toàn bộ số chè của gia đình tôi làm ra với giá đúng như cam kết. Bên cạnh đó, HTX còn hỗ trợ tư vấn kỹ thuật, hỗ trợ giống..., nhờ đó gia đình tôi có nguồn thu nhập ổn định khoảng 3-4 triệu đồng/tháng từ cây chè"- ông Hà hồ hởi nói.
Hồi sinh vùng chè An Bằng
Được biết, sản phẩm chè Bancha An Bằng của HTX Nông nghiệp - Dịch vụ Đại Thạnh Phát được UBND xã Đại Thành chọn tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) tỉnh Quảng Nam năm 2020. Hiện chè Bancha đang được địa phương đầu tư trọng điểm, hướng đến xây dựng thành sản phẩm đặc trưng của địa phương, cũng như khôi phục lại sản phẩm chè An Bằng từng vang bóng một thời.
Bên cạnh việc vận động bà con nông dân tiếp tục gắn bó với cây chè, mở rộng quy mô, HTX Đại Thạnh Phát còn hỗ trợ kỹ thuật trồng chè theo tiêu chuẩn VietGAP cho nông dân, đồng thời cam kết bao tiêu lá chè tươi cho 15 hộ dân tại thôn An Bằng với giá dao động từ 15.000-18.000 đồng/kg.
Điều này đã giúp vùng chè ở Đại Thạnh dần hồi sinh, người trồng chè có thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng/ha/năm.
Anh Chi cho hay, để thương hiệu chè Bancha An Bằng phát triển thì phải đầu tư nhiều máy móc, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào khâu chế biến nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng, mẫu mã mới đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng. Đồng thời phải giữ được nét đặc trưng riêng của chè An Bằng là chế biến theo phương pháp truyền thống, có màu sắc đẹp, thơm dịu và ngọt.
Theo đó, các sản phẩm chè Bancha An Bằng được hái từ lá chè già, rửa sạch, phơi héo, giã, ủ, băm thủ công hết sức tỉ mỉ và sấy theo quy trình nghiêm ngặt. Sau đó, lá chè khô được đóng gói với bao bì có nhãn mác, mã vạch. Với sự đầu tư chăm chút đó, sản phẩm chè An Bằng được bán với giá 600.000 đồng/kg, xuất bán đi nhiều nơi như Đà Nẵng, TP. HCM, Hội An, Tam Kỳ (Quảng Nam)...
"Tuy HTX mới thành lập nhưng dự án phát triển vùng trồng chè và thương hiệu chè Bancha An Bằng đã bước đầu có những tín hiệu đáng mừng. Người dân đã chú trọng chăm sóc thâm canh cây chè, đảm bảo nguyên liệu làm chè khô luôn an toàn, sạch sẽ. Bên cạnh đó, tôi cũng đã giải quyết việc làm cho một số lao động chế biến chè tại HTX với mức lương 6.000.000 đồng/tháng..."-anh Chi vui vẻ nói.
Hiện nay, mỗi tháng HTX Đại Thạnh Phát thu mua hơn 3 tấn chè tươi và xuất bán 300kg chè Bancha An Bằng ra thị trường, thu lãi 40 triệu đồng. Ngoài ra, anh Chi cũng tích cực trồng thử nghiệm và ươm giống chè để mở rộng vùng nguyên liệu, hoặc xuất bán cây giống cho một số nơi khác.
Anh Chi tâm sự, HTX mới thành lập nên còn nhiều khó khăn trong quá trình ổn định sản xuất, nhất là khâu tìm kiếm thị trường. Do đó, việc mở rộng quy mô vùng chè nguyên liệu tại chỗ, kết hợp áp dụng khoa học kỹ thuật vào chế biến sẽ giúp chè Bancha An Bằng sớm sản xuất ổn định, có chỗ đứng trên thị trường tiêu thụ.
Quảng Nam: 30 năm làm ra thứ mà nhà giàu, nhà nghèo, dân quê hay dân phố đều phải dùng Làng nghề làm chổi đót thuộc thôn Trường An, xã Đại Quang, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam đã trải qua nhiều sự đổi thay của cuộc sống và nhiều người đã bỏ nghề. Tuy nhiên, chị Hồ Thị Hoa, một người luôn cần mẫn, bám trụ để phát triển quy mô làng nghề và giải quyết hàng chục lao động tại địa...